Xác định nghĩa vụ giao tài sản đảm bảo trong xử lý nợ xấu

(PLO) - Nghị quyết 03/2018/NQ-HĐTP vừa được Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao ban hành hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu tại Tòa án nhân dân.
Xác định nghĩa vụ giao tài sản đảm bảo trong xử lý nợ xấu

Tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản, quyền xử lý tài sản là gì?

Nghị quyết hướng dẫn xác định tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm, tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo quy định tại khoản 1 Điều 8 của Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.

Theo đó, tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu là tranh chấp về việc bên bảo đảm, bên giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu không giao tài sản bảo đảm hoặc giao không đúng theo yêu cầu của bên nhận bảo đảm, bên có quyền xử lý tài sản bảo đảm để xử lý tài sản đó nhằm giải quyết nợ xấu.

Ví dụ, Ngân hàng TMCP A cho Cty TNHH B vay 5 tỷ đồng. Để đảm bảo cho khoản vay theo hợp đồng vay, Cty TNHH B (bên bảo đảm) đã thế chấp ngôi nhà X thuộc sở hữu của mình cho Ngân hàng TMCP A (bên nhận bảo đảm). Khoản vay này được xác định là khoản nợ xấu, Ngân hàng TMCP A yêu cầu Cty TNHH B giao ngôi nhà (tài sản bảo đảm) để xử lý nhằm giải quyết nợ xấu nhưng Cty TNHH B không giao. Tranh chấp này là “tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu”.

Còn tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu là tranh chấp về việc xác định người có quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu.

Ví dụ, Ngân hàng TMCP A cho Cty TNHH B vay 5 tỷ đồng. Để đảm bảo cho khoản vay theo hợp đồng vay, Cty TNHH B (bên bảo đảm) đã thế chấp ngôi nhà X thuộc sở hữu của mình cho Ngân hàng TMCP A (bên nhận bảo đảm). Khoản vay này được xác định là khoản nợ xấu, Ngân hàng TMCP A yêu cầu Cty TNHH B giao ngôi nhà X (tài sản bảo đảm) để xử lý nhằm giải quyết nợ xấu nhưng Cty TNHH B không đồng ý vì cho rằng mình có quyền tự chuyển nhượng ngôi nhà X để giải quyết nợ xấu. Tranh chấp này là “tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu”.

Xử lý tranh chấp về xử lý nợ xấu theo thủ tục rút gọn

Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn đối với tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm, tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 8 của Nghị quyết số 42/2017/QH14 và hướng dẫn của Nghị quyết này.

Trong quá trình giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình, trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, nếu có đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 8 của Nghị quyết số 42/2017/QH14 mà tài sản bảo đảm đó là tài sản của vợ chồng thì Tòa án có thể tách yêu cầu của đương sự đó để giải quyết bằng một vụ án khác theo thủ tục rút gọn.

Ví dụ, TAND thành phố H. đã thụ lý vụ án ly hôn giữa ông A và bà B. Ngân hàng thương mại cổ phần X được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Ngân hàng TMCP X có đơn đề nghị Tòa án giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu ngôi nhà trên đất nằm trong khối tài sản chung của vợ chồng ông A, bà B. Đồng thời, Ngân hàng TMCP X đề nghị Tòa án tách phần yêu cầu này giải quyết bằng vụ án khác theo thủ tục rút gọn. Trường hợp này, nếu Ngân hàng TPCP X và ông A, bà B đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều 8 của Nghị quyết số 42/2017/QH14 và hướng dẫn của Nghị quyết này thì Tòa án tách yêu cầu của Ngân hàng TMCP X để giải quyết bằng một vụ án khác theo thủ tục rút gọn.

Tòa án áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự về giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn, các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng Dân sự có liên quan và hướng dẫn của Nghị quyết này để giải quyết các tranh chấp hướng dẫn phía trên.

Đọc thêm