Điệp viên "hai mang" ngăn Chiến tranh thế giới thứ 3 không nổ ra

(PLVN) - Các tài liệu mật được công bố trong những năm gần đây cho biết chiến tranh hạt nhân suýt nữa đã nổ ra giữa Liên Xô và Mỹ năm 1983. Thảm kịch may mắn đã không xảy ra vào phút chót nhờ một báo cáo của một điệp viên hai mang của KGB đang hoạt động tại Anh.
Điệp viên Oleg Gordievsky.
Điệp viên Oleg Gordievsky.

Chiến dịch RYAN 

Ở thời điểm gần cuối thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Tổng Bí thư Đảng cộng sản Liên Xô Leonid Brezhnev và Giám đốc KGB Yuri Andropov đều cho rằng Mỹ và NATO có thể sẽ phát động một cuộc chiến tranh hạt nhân nhằm vào Liên Xô. Trong bối cảnh đó, giới lãnh đạo Liên Xô muốn chuẩn bị để có thể sẵn sàng tiến hành một cuộc tấn công phủ đầu.

Đây là chủ trương nguy hiểm nhất trong các giải pháp mà Liên Xô có thể thực hiện, bởi chỉ cần tính toán sai, một cuộc chiến tranh hạt nhân với hậu quả tàn khốc sẽ nổ ra. Chính vì vậy nên, để ngăn chặn khả năng khơi mào cuộc tấn công hạt nhân sai lầm, Tổng Bí thư Liên Xô Brezhnev quyết định mở chiến dịch có tên RYAN (Tấn công tên lửa hạt nhân bất ngờ). 

Chiến dịch RYAN được KGB mô tả như sau: “Một trong những mũi hoạt động chính của nhánh tình báo nước ngoài của KGB là phát hiện và đánh giá những dấu hiệu của việc chuẩn bị cho một cuộc tấn công hạt nhân bất ngờ trên tất cả các lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, quân sự, phòng vệ dân sự và hoạt động của lực lượng đặc nhiệm”.

Theo hướng này, KGB đã điều điệp viên tới tất cả các thủ đô của NATO và Nhật Bản để tiến hành thu thập thông tin. Chiến dịch được khởi động sau khi Tổng thống Mỹ Ronald Reagan lên nhậm chức vào đầu năm 1981 và tỏ lập trường cứng rắn với Liên Xô. Cùng với đó, hàng loạt các cuộc tập trận quân sự do Mỹ dẫn đầu và các đợt chiến tranh tâm lý cũng đã được các nước NATO tiến hành ở khu vực biên giới với Liên Xô.

Đến năm 1983, khi ông Andropov trở thành Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, khẩu chiến ông và Tổng thống Mỹ Reagan nổ ra thường xuyên. Lúc này, chiến dịch RYAN càng được mở rộng, trở thành chiến dịch thu thập thông tin tình báo lớn nhất của Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh và cũng là chiến dịch thu thập thông tin tình báo thời bình lớn nhất trong lịch sử. Danh sách những chỉ dấu về một cuộc tấn công hạt nhân mà mỗi điệp viên Liên Xô lúc bấy giờ phải quan sát cũng đã lên đến gần 300 đầu mục.

Sơ đồ tác chiến cuộc tập trận “Able Archer 83” của NATO.
Sơ đồ tác chiến cuộc tập trận “Able Archer 83” của NATO. 

Theo các tài liệu, để có thể truyền tải và đánh giá kịp thời các thông tin do các đầu mối ở khắp nơi trên thế giới gửi về, chỉ riêng trong nội bộ KGB lúc bấy giờ đã có thêm 300 vị trí việc làm được bổ sung. Trong khuôn khổ chiến dịch, các điệp viên của KGB được điều đi khắp nơi, từ Nhà Trắng và các địa điểm quan trọng khác ở thủ đô Washington, các căn cứ quân sự của Mỹ ở trong và ngoài nước và chú ý tới mọi diễn biến cho thấy Mỹ chuẩn bị tiến hành một cuộc chiến tranh hạt nhân nhằm vào Liên Xô.

Một số ghi chép cho rằng ở Đức lúc bấy giờ, gần như tất cả mọi người đều được điệp viên của KGB tuyển mộ để thu thập thông tin cho Liên Xô. Binh lính NATO vì thế được cảnh báo không được thảo luận bất cứ vấn đề gì liên quan đến nhiệm vụ khi rời khỏi căn cứ. Họ cũng được cảnh báo đặc biệt cẩn trọng với những phụ nữ gặp ở quán bar, khiến nhiều người nghĩ rằng tất cả nữ giới ở quán bar đều là điệp viên của KGB.

Nhờ mạng lưới dày đặc như vậy mà tất cả những hoạt động triển khai lực lượng, vũ khí, báo động và mọi hoạt động khác ở tất cả các căn cứ của NATO đều được báo cáo lại với KGB. 

Bên bờ vực chiến tranh

Đầu năm 1983, Tổng thống Mỹ Reagan công bố kế hoạch xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa theo sáng kiến có tên Star Wars. Trong tháng 2/1983, KGB phát đi báo động cao trong hệ thống báo động tình báo của chiến dịch RYAN, đồng nghĩa với nhận định khẩu chiến giữa Mỹ và Liên Xô có dấu hiệu sẽ bùng nổ thành các động thái cụ thể hơn.

Ngày 2/11/1983, Mỹ và các nước đồng minh NATO khởi động cuộc tập trận quân sự có tên “Able Archer” hay “Able Archer 83”. Đây là cuộc tập trận mô phỏng việc sử dụng vũ khí hạt nhân nhằm vào Liên Xô và cũng là để thử năng lực chỉ huy và kiểm soát của liên quân.

Kịch bản được đặt ra ở đây là NATO sẽ triển khai lực lượng để bảo vệ các nước đồng minh sau khi các trong khối Hiệp ước Warsaw điều binh tới Nam Tư sau bất ổn ở nước này. Binh sỹ khối Hiệp ước Warsaw sau đó nhanh chóng tấn công vào một số nước khác, khiến xung đột gia tăng. Vũ khí hóa học và vũ khí hạt nhân được huy động.

Trên thực tế, đây không phải là lần đầu tiên NATO tiến hành tập trận như vậy nhưng “Able Archer” là cuộc tập trận có quy mô lớn nhất, với sự tham gia của 40.000 binh lính và được tiến hành trên phạm vi lớn nhất, trải dài trên khắp châu Âu, từ Thổ Nhĩ Kỳ tới bán đảo Scandinavia. Cuộc tập trận cũng có sự tham gia của nguyên thủ các nước như Anh và Đức.

Dấu hiệu đáng báo động nhất với Liên Xô là việc NATO đẩy mức báo động quân sự lên thành DEFCON-1 - mức báo động mà hệ thống bảo vệ vũ khí hạt nhân của khối đã bị vô hiệu hóa và đã sẵn sàng rời bệ phóng.

Cuộc tập trận diễn ra trong bối cảnh căng thẳng trên thế giới đang ở giai đoạn cao trào khi 2 tháng trước đó chiếc máy bay Boeing 747 của hãng hàng không Korean Airlines đã bay lạc vào không phận Liên Xô và đã bị Liên Xô bắn rơi do nhầm tưởng đó là máy bay do thám của Mỹ, khiến toàn bộ 269 người có mặt trên máy bay thiệt mạng.

Dù không có bằng chứng thực tế do cuộc tập trận của NATO là một cuộc diễn tập chỉ huy nhưng một số nguồn tin lúc đó thông báo với Moscow rằng lực lượng mặt đất của NATO đang được huy động. Do đó, KGB kết luận rằng “Able Archer” chính là vỏ bọc cho một cuộc tấn công quân sự thực sự. Các đơn vị chiến đấu của khối Hiệp ước Warsaw với vũ khí hạt nhân ở khu vực Đông Đức và Ba Lan đã được đặt trong tình trạng sẵn sàng. Các tên lửa đạn đạo liên lục địa vốn có khả năng tránh radar cũng được chuẩn bị phóng đi. 

Tháo ngòi vào phút chót

Các tài liệu được giải mật về sau cho biết, không khí đặc biệt căng thẳng do những khủng hoảng và những tuyên bố đầy khiêu khích được đưa ra trong vài tháng trước đó khiến KGB kết luận người Mỹ đã được đặt trong tình trạng báo động và đã bắt đầu đếm ngược đến thời điểm bắt đầu chiến tranh.

Các tài liệu được giải mật gần đây cho biết, đến khoảng ngày 8-9/11/1983, Điện Kremlin đã gần như rơi vào tình trạng hoang mang. Song, may mắn thay, cuộc chiến tranh hạt nhân đã không nổ ra khi một điệp viên của KGB đồng thời cũng là điệp viên 2 mang làm việc cho người Anh có tên Oleg Gordievsky đã cảnh báo người Anh rằng phương Tây đang tiến vào “vùng nguy hiểm”.

Sau khi nhận được thông tin về việc điều động lực lượng của Liên Xô, tình báo Anh MI-6 đã ngay lập tức báo cáo lại với Chính phủ nước này. Theo lệnh của Thủ tướng Anh lúc bấy giờ là bà Thatcher, giới chức Anh đã liên lạc với phía Mỹ, đề nghị NATO thông báo cho Liên Xô mục đích thực sự của cuộc tập trận để tránh hiểu lầm.

Khi NATO rút bớt một số vũ khí được huy động để tập trận, ngòi nổ của cuộc Chiến tranh thế giới III đã được gỡ bỏ. Vào đầu năm 1984, khi nhận được các báo cáo của CIA về việc người Nga đã nghĩ rằng Mỹ đã chuẩn bị tấn công hạt nhân nhằm vào nước này, Tổng thống Mỹ đã sốc khi nhận thấy chính quyền của ông đã suýt khởi động chiến tranh hạt nhân. Ông Reagan sau đó đã bắt đầu bàn với các cố vấn về việc kết thúc Chiến tranh Lạnh.

Đọc thêm