Một thương binh lận đận suốt 5 năm, qua 3 vòng tố tụng mới được tuyên thắng kiện trong vụ án đòi lại nhà đất do người khác chiếm dụng vì cô người tình giả mạo giấy tờ để lừa bán. Nhưng bất ngờ 2 năm sau, ngày 12/6/2012, vụ án lại bị kháng nghị hủy án lần thứ 4 vì những nguyên nhân không đúng căn cứ pháp luật.
Bị người tình lừa bán nhà
Ngày 12/6/2001, anh Đặng Văn Khoát (SN 1962, thương binh hạng 2/4, quê Hưng Yên, trú tại phường Nghĩa Đức, Thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông) nhận chuyển nhượng của ông Trương Minh Thanh và bà Ngô Thị Kim Thoa khoảng 1.400 m2 đất tại thôn Nghĩa Tiến, thị trấn Gia Nghĩa (cũ) với giá 32 triệu đồng.
Dù đã có vợ ở quê là chị Nguyễn Thị Khuyên nhưng thời điểm năm 2002, anh Khoát có quen và chung sống với chị Nguyễn Thị Thuỷ (SN 1975, địa chỉ theo chứng minh nhân dân là ở phường Bắc Sơn, TX Uông Bí, Quảng Ninh). Khi đến ở cùng anh Khoát, chị Thuỷ đã có một con trai sinh ngày 22/1/2000.
Từ ngày 14/1/2003, anh Khoát can án 3 năm tù, thời gian này chị Thuỷ đã giả mạo lập hợp đồng mua bán ngày 30/7/2001 giữa chị Thuỷ và bà Thoa để tự ý lập giấy “chuyển nhượng đất nhà vườn” cho anh Nguyễn Đình Nghinh với giá 200 triệu đồng vào ngày 28/3/2004. Sau đó anh Nghinh chuyển nhượng lại nhà đất trên cho anh Nguyễn Xuân Dương.
Ngày 28/4/2004, anh Dương sang tên sổ đỏ toàn bộ nhà đất trên. Quá trình anh Dương quản lý, phần lớn diện tích nhà đất trên đã bị nhà nước thu hồi, hiện chỉ còn căn nhà xây trên diện tích 343 m2.
Ngày 2/2/2005, anh Khoát mãn hạn tù trở về mới biết nhà đất của mình đang do anh Nguyễn Xuân Dương quản lý. Năm 2005, anh Khoát khởi kiện ra TAND TX Gia Nghĩa đòi tài sản đối với anh Dương.
Kháng nghị kiểu... "đánh đố" nguyên đơn
Quá trình thụ lý giải quyết vụ án, người liên quan Nguyễn Thị Thuỷ bỏ đi không rõ tung tích, tòa án không thể triệu tập được.
Theo Kết luận giám định số 22 ngày 26/12/2005 của Phòng Kỹ thuật Hình sự (PC21) Công an tỉnh Đăk Nông thì hợp đồng chuyển nhượng giữa chị Thuỷ và bà Thoa là giả mạo. Do đó, hợp đồng chuyển nhượng đất giữa chị Thuỷ và anh Nghinh, giữa anh Nghinh và anh Dương không có giá trị pháp lý.
Mặc dù chị Thuỷ không lộ diện nhưng vẫn “thoắt ẩn thoắt hiện” thể hiện ở việc phía bị đơn lại cung cấp cho Toà án một số chứng cứ là giấy tờ liên quan trực tiếp đến chị Thuỷ và nhiều khả năng do chính chị này cung cấp.
Đơn cử Giấy khai sinh của con chị Thủy thể hiện người cha là Đặng Văn Khoát đứng tên khai sinh tại UBND xã Đăk Sin (huyện Đăk Klâp, Đăk Lăk). Tuy nhiên, Công an xã Đăk Sin xác nhận trong sổ bộ của xã không có việc anh Khoát đăng ký khai sinh, đăng ký hộ khẩu cho con. Như vậy, giấy khai sinh trên là giả mạo.
Trải qua 3 vòng tố tụng, Bản án Sơ thẩm số 16/2009/DSST ngày 26/6/2009 của TAND TX Gia Nghĩa và Bản án Phúc thẩm số 40/2010/DSPT ngày 24/6/2010 đã tuyên chấp nhận đơn khởi kiện của anh Khoát, buộc anh Dương phải hoàn trả nhà đất cho anh Khoát. Bản án sơ thẩm cũng chỉ rõ: anh Nghinh và anh Dương có quyền khởi kiện đối với chị Thuỷ bằng một bản án khác.
Gần hai năm sau, bất ngờ ngày 12/6/2012, Chánh án TAND Tối cao ký Quyết định Kháng nghị số 212/2012 đối với Bản án Phúc thẩm số 40/2010/DSPT ngày 24/6/2010 của TAND tỉnh Đăk Nông, đề nghị xử hủy vụ án, giao hồ sơ về cấp sơ thẩm giải quyết lại từ đầu.
Luật sư Đỗ Thúy Phượng (Đoàn Luật sư Hà Nội): Không có cơ sở chấp nhận kháng nghị hủy án lần thứ 4 Thứ nhất, kháng nghị chỉ ra hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm không đưa chị Nguyễn Thị Khuyên (vợ anh Khoát) vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan nhưng trong suốt quá trình tố tụng, chị Khuyên đã có lời khai đầy đủ, chi tiết các nội dung liên quan, chị Khuyên không có liên quan và tranh chấp đến thửa đất mà anh Khoát đang kiện đòi. Bởi vậy, tôi cho rằng việc không đưa chị Khuyên vào tham gia tố tụng là có thiếu sót nhưng chưa nghiêm trọng, không ảnh hưởng đến bản chất vụ án nên không cần thiết phải sửa, hủy. Thứ hai, nội dung kháng nghị “anh Khoát không cung cấp địa chỉ của chị Nguyễn Thị Thủy là chưa đủ điều kiện khởi kiện, vi phạm thủ tục tố tụng” là không có cơ sở pháp luật. Bởi lẽ, anh Khoát chỉ chung sống với chị Thủy một thời gian ngắn, sau khi bị bắt tù thì mất liên lạc, năm 2005 ra tù anh Khoát mới biết bị chị Thủy giả mạo giấy tờ bán nhà. Tòa án sau khi áp dụng mọi biện pháp nghiệp vụ còn không thể tìm ra tung tích chị Thủy, thì việc buộc anh Khoát phải tìm và cung cấp địa chỉ của chị Thủy mới đủ căn cứ khởi kiện thật khác nào “đánh đố” đương sự. Theo quy định của BLTTDS thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự, trong vụ án này anh Khoát chỉ có nghĩa vụ chứng cứ chứng minh mình là chủ sở hữu thửa đất tranh chấp chứ không có nghĩa vụ phải tìm ra chị Thủy. Bởi các lẽ trên, tôi cho rằng bản kháng nghị số 212/2012 ngày 12/6/2012 của Chánh án TAND Tối cao là khiên cưỡng, không có cơ sở chấp nhận. Cần thiết phải giữ nguyên quyết định của Bản án Sơ thẩm số 16/2009/DSST ngày 26/6/2009 của TAND TX Gia Nghĩa và Bản án Phúc thẩm số 40/2010/DSPT ngày 24/6/2010 của TAND tỉnh Đăk Nông vì cách giải quyết của hai bản án trên là đúng pháp luật. |
Trần Nguyên