Bà là một người vợ có cưới hỏi đàng hoàng bước chân về nhà chồng và gắn số phận mình suốt đời ở đó. Bà đã hi sinh không mệt mỏi cho những trách nhiệm và bổn phận ấy. Cho đến một ngày, người chồng bỗng dưng "vật đổi sao dời" đẩy cuộc đời bà vào số kiếp "dã tràng xe cát biển Đông".
Nhọc nhằn 40 năm làm vợ, làm dâu
Ngồi trước mặt tôi là người đàn bà đã bước sang tuổi 60. Nhiều phụ nữ ở tuổi này đã bắt đầu thoải mái an hưởng tuổi già, vui vầy bên con cháu. Nếu nhìn vào bốn đứa con gái lấy chồng, con cái đề huề thì bà cũng có cái phúc phận ấy. Thế nhưng, cuộc đời có lẽ không dành sự ưu ái cho bà, dù đó là sự ưu ái của những năm tháng tuổi già sau bao nhiêu năm vất vả khổ cực.
Sinh ra ở mảnh đất QĐ (TT, HN), Bà Hạnh lấy chồng khi tuổi vừa tròn 20. Ngày đó, bà là cô thôn nữ xinh đẹp, đảm đang, tháo vát. Có lẽ vì những ưu điểm ấy nên bà được một con trai của một gia đình trong xóm để ý. Gia đình chàng trai cũng cảm mến cô gái đức độ ấy đã mang trầu cau đến cưới hỏi. Cuộc sống vợ chồng của bà đã có những ngày đầu hạnh phúc. Bởi cuộc hôn nhân ấy ngoài sự mai mối sắp đặt của bố mẹ còn có cả tình yêu đôi lứa.
Nhưng rồi bà không được gần chồng nhiều bởi thời chiến nên chồng bà phải tham gia kháng chiến xa nhà. Chiến tranh kết thúc, bà cũng không được đoàn tụ chồng giống như bao người khác khi đơn vị ông đóng tận trong Nam. Vậy là một mình bà bươn chải nuôi bố mẹ chồng già yếu, em chồng còn nhỏ dại. Mỗi lần chồng về rồi đi là bà một lần mang thai chửa đẻ. Cứ thế bốn lần thì bốn đứa con gái ra đời.
Cảnh chồng Nam vợ Bắc ấy kéo dài gần 20 năm thì bà tìm cách chuyển được cho chồng về công tác gần nhà. Cứ tưởng từ nay, vợ chồng sẽ sớm hôm gần nhau mà nuôi dạy con cái nên người. Thế nhưng, điều ấy chỉ đến với bà đúng hai năm. Sau đó là khoảng thời gian giông tố ngầm trong cuộc đời bà.
Khi đứa con gái út lên hai thì chồng bà lên phố cặp bồ. Bà đắng lòng khi phát hiện ra chồng đã có con riêng với người phụ nữ khác. Đau khổ hơn người phụ nữ ấy lại sinh được con trai, thứ mà chồng bà đang cần để làm tròn trách nhiệm con trưởng trong gia đình.
Bà muốn đứng lên nhờ tiếng nói của chính quyền đoàn thể để tìm lại chồng cho mình, cha cho các con. Nhưng rồi người ta khuyên bà, kể cả mẹ chồng sớm hôm cận kề bên cạnh cũng nói rằng thôi thì hãy chấp nhận cảnh chồng có "vợ lẽ". Nếu bà làm lớn chuyện thì bao nhiêu năm công tác của chồng bà đổ xuống sông xuống biển, mà biết đâu chồng chẳng quay về lại còn mất sạch. Bà đành ôm phận làm vợ cả ra rìa.
Một mình bươn chải nuôi bố mẹ chồng già yếu và bốn đứa con thơ. Rồi bố mẹ chồng lần lượt qua đời, bốn đứa con gái cũng lớn lên đến tuổi gả chồng. Bà tảo tần lo hết mọi việc. Nhẩm đi nhẩm lại khi đứa con gái út xuất giá bà đã 40 năm sống cho nhà chồng, cho con cái mà không một ngày nghĩ đến hạnh phúc riêng của bản thân mình. Trong tâm tưởng của bà Hạnh chỉ nghĩ, thôi thì ai cũng có số phận, giờ lo xong cho con cái, đại sự của bố mẹ chồng cũng đã lo tròn, bà sẽ sống nốt những ngày tuổi già bên cạnh hạnh phúc của con cái.
Cuối đời đắng lòng trắng tay
Vậy nhưng, cuộc đời vẫn không ngừng cơn sóng cả đối với bà Hạnh. Một ngày, người chồng biền biệt hơn 20 năm kia bỗng dưng quay về nói chuyện ly hôn. Bà nghẹn lòng, bao nhiêu năm nay bà có tranh dành hay đòi hỏi mà chỉ sống với ông trên danh nghĩa vợ chồng. Cả cuộc đời bà đã hi sinh cho cái danh nghĩa ấy thì ông hãy niệm tình mà để cho bà sống nốt cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay.
Già cả rồi, ông còn đòi ly hôn làm gì cho cám cảnh thân bà. Nhưng chồng bà không chịu một hai đòi bà phải ký vào tờ đơn ly hôn kia. Nhiều đêm mất ngủ, bà không biết phải xử trí sao với tình cảnh hiện tại. Mấy người em chồng bỗng dưng kéo nhau về đòi chia thừa kế mảnh đất và ngôi nhà mà bao nhiêu năm nay họ bỏ mặc cho bà xoay xở với bố mẹ mình.
Họ đưa ra một đống giấy tờ hợp pháp bảo rằng tất cả tài sản đó đều mang tên bố mẹ họ vậy nên bà chẳng có quyền hành gì mà giữ. Chồng bà ra mặt bảo rằng không nhận thừa kế của bố mẹ để lại mà cho tất cả các em. Vì vậy nếu chia tài sản, bà cũng chẳng được chia tí nào vì theo pháp luật con dâu không nằm trong hàng thừa kế của bố mẹ chồng.
Quá uất ức, bà không chịu ký vào đơn ly hôn với hi vọng nếu hôn nhân không đổ vỡ thì bà vẫn được sống với danh nghĩa làm vợ hợp pháp đàng hoàng, theo đó bà sẽ được sống trong ngôi nhà mà hơn 40 năm qua bà từng gắn bó bao sướng khổ vui buồn ở đấy. Thế nhưng không phải bà muốn là được.
Tài sản đó được anh em chồng thống nhất chia cho nhau và nhanh chóng hợp thức hóa quyền sở hữu. Bỗng dưng bà thành kẻ đi ở nhờ trong chính ngôi nhà mà bà đã có một phần công sức tạo dựng nên. Không bằng lòng với cách đối xử ấy, bà vẫn quyết trụ lại không dọn ra ngoài như yêu cầu của những con người bội tình bạc nghĩa kia.
Người chồng kia bảo, bà không còn là dâu con trong nhà ông ta nữa sau khi ly hôn. Do đó, ông ta không cần bà thờ phụng bố mẹ mình. Vậy là căn phòng thờ được anh em chồng mua khóa mới về thay, bao nhiêu đồ thờ cúng bà sắm sửa để thờ phụng bố mẹ chồng từ xưa bị họ vứt xuống.
Chồng bà còn tuyên bố rằng nếu bà tử tế "ngoan ngoãn" ký vào đơn ly hôn thì ông ta còn thương tình mua cho 30 mét vuông đất chỗ khác mà lấy chỗ sinh sống, còn không thì ra khỏi nhà bố mẹ ông ta với hai bàn tay trắng. Tuy nhiên, vì bà đã bao lần cố tình ngoan cố không chịu ký vào đơn ly hôn đã khiến lời hứa kia của người chồng khó mà trở thành hiện thực. Vậy là sau 40 năm làm vợ, làm dâu bà ra đi tay trắng.
Bà Hạnh hận người chồng bội bạc kia 10 thì cũng hận mình một. Bà bảo giá như trước kia bà ly hôn khi chồng bà bước chân theo "vợ lẽ" thì có lẽ bà đã có cơ hội tìm hạnh phúc mới.
- Bây giờ bị chồng ly hôn đuổi ra khỏi nhà tôi mới thấy mình ngu dại. Ngẫm lại, từ trước tới nay tôi chỉ là một người ở không công cho ông ta. Trong khi ông êm ấm cảnh vợ con ở một nơi khác thì tôi phải cặm cụi nuôi dưỡng bố mẹ chồng già yếu, nuôi bốn đứa con gái thơ dại nên người. Khi bố mẹ chồng qua đời, tôi tận nghĩa hết mực. Giờ mọi việc xong xuôi thì ông ta quay về rũ bỏ tôi.
Bà Hạnh nói trong nước mắt. Có người hiểu biết bảo bà kiện người chồng bội nghĩa kia về tội vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Họ nói nếu làm như thế thì may ra ông chồng kia sẽ tỉnh ngộ mà không đòi ly hôn bà nữa. Suốt cuộc đời lam lũ bám ruộng đồng, bà chẳng nghĩ đến chuyện kiện cáo chồng làm gì nhưng khi bị dồn đến bước đường cùng, bà cũng thử liều lần cuối.
Tình cảm bao năm nay không còn nữa, nhưng bà vẫn còn cái nghĩa với ông vì bốn đứa con gái. Thế nhưng khi bà nghĩ đến chuyện làm đơn thì cũng là lúc người chồng bội bạc kia tuyên bố rằng ông ta sống với bà có cưới hỏi đàng hoàng nhưng về pháp luật không có đăng ký. Bà ngơ ngẩn trước sự tráo trở của người mà một thuở bà đã tay ấp gối kề.
Cũng chính bây giờ bà mới nhớ đến cảnh ngày ông ta theo người phụ nữ khác đã cố tình lấy hết giấy tờ liên quan đến bà đốt sạch. Ngày đó bà nghĩ, ông có đốt hết thì cũng chẳng thể phủ nhận được việc bà là vợ của ông. Bà ra xã xin sao lục lại đăng ký kết hôn nhưng thật oái oăm khi nghe chính quyền xã bảo rằng số giấy tờ từ ngày đó đã mục nát và thất lạc.
Hiện xã không còn những giấy tờ đó nên không thể sao lục cho bà. Bà đắng lòng vì như thế thì làm sao bà có đủ chứng cứ giấy tờ liên quan để làm đơn kiện chồng. Và vì thế, ông ta cũng chẳng cần bà ký vào tờ đơn ly hôn kia nữa để làm gì. Bà không còn thân phận, không còn ràng buộc gì sau bao nhiêu năm cật lực hy sinh cho gia đình chồng.
Giờ có muốn kêu bà cũng chẳng biết kêu tới ai. Vì nói cái gì người ta cũng đòi bà phải có bằng chứng. Pháp luật tin vào giấy trắng mực đen rõ ràng, mà những thứ đó thì bà không biết cách nào tìm lại được. Những năm tháng sống vì chồng vì con của bà Hạnh cả làng, cả xã ai cũng biết. Vậy nhưng giờ tất cả những điều ấy chỉ còn là niềm tiếc nuối thương tâm, xót xa cho bà mà thôi...