Đại Thế Chí Bồ Tát đem ánh sáng trí tuệ cứu vớt chúng sanh mười phương

(PLVN) - Đại Thế Chí Bồ Tát cùng với Quan Thế Âm Bồ Tát là thị giả theo hầu Phật A Di Đà, xưng tụng là Tây Phương Tam Thánh, tiếp dẫn và độ hóa chúng sinh bằng trí tuệ.
Đại Thế Chí Bồ Tát đem ánh sáng trí tuệ cứu vớt chúng sanh mười phương

Cầm cành hoa sen màu xanh

Đại Thế Chí Bồ Tát là tên phiên phiên âm từ tiếng Phạn Mahastamaprapta, dịch ý là Đại Thế Chí hoặc Đại Tinh Tiến, gọi tắt là Thế Chí Bồ Tát. Ngoài ra còn những tên khác như Đắc Đại Thế Bồ Tát, Đại Tinh Tấn Bồ Tát, Vô Biên Quang Bồ Tát. Mỗi cái tên, danh xưng đều có ý nghĩa quan trọng, gắn liền với đạo hạnh và chức trách mà Ngài mang.

Đại Thế Chí Bồ Tát dùng ánh sáng trí tuệ chiếu khắp muôn nơi để chúng sinh mười phương thoát khỏi đau khổ, đạt thành tựu Bồ Đề, có đạo hạnh chuyên tu. Đắc Đại Thế Bồ Tát diễn tả đại hùng đại lực đại từ bi của Ngài, dùng hạnh nguyện của mình để điều phục và tiếp độ chúng sinh trong thế giới Ta bà.

Trong Tây Phương Tam Thánh, Thế Chí Bồ Tát đứng bên phải Đức Phật A Di Đà, bên phải là Quan Thế Âm Bồ Tát, hiện thân là hai cư sĩ có cách ăn mặc tương tự nhau. Thế Chí cầm cành hoa sen màu xanh, Quan Âm cầm nhành dương liễu và bình tịnh thủy.

Trên chóp mũ của Bồ Tát Đại Thế Chí có hình ngôi chùa, đại diện cho trí tuệ. Thân tỏa ra màu vàng tím lấp lánh, soi chiếu thập phương để chúng sinh hữu duyên đều có thể tận mắt nhìn thấy ánh sáng của Phật pháp và tịnh diệu. Vì thế mà Bồ Tát Đại Thế Chí cũng được gọi là Bồ Tát Vô Lượng Quang.

Thiên quan của Ngài có 500 bảo hoa, trên mỗi bảo hoa có 500 bảo đài, mỗi bảo đài hiện lên quốc độ tịnh diệu của chư Phật thập phương. Tóc búi hình hoa sen đỏ, trên có bảo bình, trong bảo bình chứa ánh sáng trí tuệ, là nguồn lực để độ hóa chúng sinh.

Cũng có hình tượng Bồ Tát Đại Thế Chí hiện thân là tướng người cư sỹ, cổ đeo chuỗi ngọc anh lạc và trên tay cầm một hoa sen màu xanh, tượng trưng cho sự thanh tịnh. Có ý rằng nhờ trí tuệ sáng suốt mà dứt sạch được mọi phiền não mê lầm nơi tự thân và đưa tay cứu vớt chúng sanh ra khỏi mê lầm tội lỗi.

Trí tuệ là thanh gươm tinh nhuệ cắt đứt mọi ràng buộc, vướng mắc trong cõi trần ai, trải qua nhiều kiếp tu hành tích lũy với biết bao công phu, đức Đại Thế Chí đã đạt được. Ngài dùng trí của mình để độ kiếp lầm than, theo đúng tinh thần của Phật giáo.

Ngài hiện thân cư sĩ thể hiện hạnh nguyện của Ngài gần gũi với chúng sinh, muốn chúng sinh nghe pháp, thấu hiểu pháp thì cần phải cảm thông cho chúng sinh. Chỉ khi gần gũi và trở thành bạn lành của chúng sinh thì mới có thể làm được điều này. Thế nên Ngài là vị cư sĩ giản dị, dễ dàng đi khắp nhân gian để tiếp xúc với mọi người.

Muốn cứu vớt chúng sanh về tịnh độ, trước phải dạy họ dứt sạch phiền não ô uế. Vì thế, danh hiệu Ngài đã nói lên ý nghĩa vận dụng ánh sáng trí tuệ chiếu soi cho chúng sanh thấy rõ những uế trược nơi mình, đồng thời giúp cho họ có sức mạnh đoạn trừ những uế tạp, hướng về tịnh độ.

Trí tuệ là ngọn nến soi đường cho chúng sinh

Quán Vô Lượng Thọ Kinh có ghi, Đại Thế Chí Bồ Tát lấy ánh sáng trí tuệ làm ngọn đèn soi đường cho chúng sinh thoát khỏi ba cõi ác, đạt được sức mạnh vô biên, hướng tới thân tâm an lạc. Khi Ngài di chuyển, thập phương mười hướng như đang xảy ra một cơ địa chấn, trí tuệ quét sạch u mê nên có tên gọi Đại Thế Chí.

Ngài là một trong Tây Phương Tam Thánh, cùng Quan Thế Âm Bồ Tát theo hầu Phật A Di Đà, một trong các vị Thượng thủ trong chúng hội Bồ Tát. Đại Thế Chí bên phải, Quan Thế Âm bên trái, một bên đại diện cho tinh thần đại trí, một bên biểu thị cho tinh thần đại bi. Người tu hành muốn tu tập viên mãn, đạt thành tựu Phật giáo thì phải có cả hai yếu tố là tấm lòng và trí tuệ.

Từ bi bên trái, trí tuệ bên phải, trí tuệ dẫn đường cho từ bi để từ bi đi đúng hướng, từ bi thấm nhuần trí tuệ để trí tuệ không cứng nhắc, không trên đời mà giúp đời, cứu đời thoát khỏi u tối. Đó chính là ý nghĩa cao nhất, sự hòa hợp tốt đẹp nhất của Phật giáo. Là Phật tử, là những người hướng Phật nhất định phải hiểu được đạo lý này, đồng thời trang bị cho mình hai hạnh này, có như vậy thờ Phật mới chân chính, kính Phật mới chuyên tu.

Trí của Thế Chí Bồ tát là trí của ánh sáng và niềm tin, quyết tâm giáo hóa chúng sinh tránh khỏi đường mê lối lạc. Ngài là vị Bồ Tát Đẳng Giác hầu cận Đức Phật A Di Đà ở cõi Cực Lạc, trợ giúp Phật hóa, tiếp dẫn chúng sinh mười phương thế giới, giáo hóa Thánh chúng tại Cực Lạc, chờ tới khi công quả viên mãn sẽ bổ xứ thành Phật.

Đây là vị Bồ Tát có nhân duyên sâu nặng với chúng sinh khắp cõi, tuy đã thành Phật trong kiếp quá khứ nhưng kiếp này thừa nguyện tái lai vì lòng thương chúng sinh, hiện thân làm Bồ Tát ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, trợ duyên cho Phật A Di Đà giáo hóa và tiếp dẫn chúng sinh thoát khỏi bể khổ.

Bồ Tát được Phật Bảo Tạng thọ ký rằng, trong vô lượng vô biên kiếp, sau khi Đức Phật Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Sơn Vương Như Lai nhập Niết Bàn, tức là Quan Thế Âm Bồ Tát thành Phật trong đời vị lai thì Đại Thế Chí sẽ thay Ngài tiếp quản chánh pháp và thế giới Tây Phương, thành Phật hiệu là Thiện Trụ Trân Bảo Sơn Vương Như Lai.

Đại hùng đại lực đại từ bi của Thế Chí Bồ Tát chính là tinh thần và trí tuệ cao nhất để Ngài hoàn thành nguyện cũng như trọng trách mà Phật đạo giao phó. Sức mạnh ấy thể hiện ở các phương diện là Đại hùng: sự mạnh mẽ, can trường dám xả thân rời xa những tham muốn hưởng lạc của thế gian. Điều này không những cần tiến tu mà còn phải có đại hùng, tu đạo Bồ Tát, kham những công hạnh, quyết dấn thân vào những việc khó khăn, quyết nhẫn nhục những điều vượt qua giới hạn bằng sức mạnh của tu tập.

Đại lực: Tuy đã thành Phật nhưng Ngài không an trụ tại cảnh giới Niết Bàn, tận hưởng pháp lạc mà tiếp tục hiện thân Bồ Tát Đẳng Giác để xả thân cứu độ chúng sinh, giáo hóa giác ngộ lầm than. Cái ác của chúng sinh có sâu dày đến đâu, ác nghiệp có cường thịnh đến đâu Thế Chí cũng không nản lòng, thệ nguyện vào những nơi tối tăm nhất, chốn ngọc nhằn nguy khó nhất để giác ngộ chúng sinh.

Đại bi: có đại bi mới làm tròn được hành nguyện giáo hóa khó nhọc đến vậy, từ bi cũng là gốc rễ ngọn nguồn của Phật giáo. Trí tuệ là đại hùng nhưng được dẫn dắt bởi đại bi, dùng trí tuệ quan sát căn tính của chúng sinh ngay cả khi mạt pháp nghiệp mỏng chướng dày nhất, kể cả khi căn lành nông cạn nhất để chúng sinh vượt khổ nạn, đạt thành tựu.

Trong kinh Lăng Nghiêm, chương Niệm Phật viên thông, khi Đức Phật Thích Ca hỏi về pháp môn tu hành, Đại Thế Chí Bồ Tát cho biết Ngài tu theo pháp môn niệm Phật. Nhân lành mà Ngài gặt hái được là dùng tâm niệm Phật, vô sinh pháp nhẫn, vì thế Ngài quyết dùng đại hùng đại lực đại bi mà mình có để tiếp dẫn những người niệm Phật vãng sinh tịnh độ.

Đọc thêm