Khám phá Tết tháng bảy ở huyện vùng cao biên giới

(PLO) - “Chêết ngụt xêếp xí”, “sặt nhịt sặp xây”, “sliet ha chiêp phăy chit”, tức là ngày Tết 14/7 âm lịch của các dân tộc Tày, Sán Chỉ, Dao trên địa bàn huyện biên giới Bình Liêu (Quảng Ninh). Vào ngày này, đồng bào các dân tộc thiểu số nơi đây lại bày các mâm cỗ để cúng tổ tiên, cầu một vụ mùa bội thu, cầu cho con cháu mạnh khỏe, học hành giỏi giang, bình an, may mắn.
Những ngôi nhà cổ kính của đồng bào dân tộc Dao ở huyện Bình Liêu
Những ngôi nhà cổ kính của đồng bào dân tộc Dao ở huyện Bình Liêu

Đây là một cái tết của các gia đình, các dòng họ nơi huyện miền biên giới Bình Liêu được sum họp, tuy nhiên mỗi dân tộc lại có một cách thức tổ chức với những nét độc đáo riêng, hiếm nơi nào có được.  

Đến với các bản làng trong những ngày này (ngày 14, 15/7 âm lịch) đâu đâu cũng thấy sực nức hương thơm của gạo nếp từ những chiếc bánh nếp được gói trong lá chuối, bánh chưng đang nghi ngút khói trên bếp lửa hồng. Theo tiếng Tày, Tết rằm tháng Bảy gọi là “chêết ngụt xêếp xí”, được tổ chức vào ngày 14 âm lịch. Vào ngày này, phụ nữ người Tày thường làm phở hoặc làm bánh và mang gà, ngan, hoặc cả sáy, đến nhà bố mẹ đẻ để tỏ lòng biết ơn. Mâm cỗ của người Tày khá thịnh soạn gồm gà, thịt lợn, rượu, phở… 

Theo những cụ cao niên ở trong bản người Tày kể lại: Ngày xưa công việc đồng áng bận rộn nên người Tày lấy ngày 14 tháng 7 âm lịch hay còn gọi là “chêết ngụt xêếp xí” để tổ chức sum họp gia đình, cũng như báo với tổ tiên về kết quả của vụ chiêm, và cầu mong tổ tiên phù hộ một vụ mùa bội thu. Bởi, ngày xưa nguồn nước tưới cho cây lúa phụ thuộc nhiều vào thời tiết, nhiều hộ gia đình chỉ cấy được vụ mùa nên đây là vụ quan trọng nhất quyết định năng suất cả năm. 

Vào ngày này, những người phụ nữ Tày sẽ gác lại mọi công việc để chuẩn bị cỗ Tết cho thịnh soạn. Trong đó, không thể thiếu món phở gật gù truyền thống làm từ gạo tẻ do bà con tự làm ra và bánh “Peẻng Xì” – một loại bánh gần giống với bánh dày. 

Bà Bế Thị Hoa – Khu Bình Quân (thị trấn Bình Liêu) cho biết: “Ngày xưa vào Tết 14 tháng 7, nhà nào cũng dậy thật sớm để tráng phở, còn những người có sức khỏe thì giã bánh nên khắp bản đâu đâu cũng vui lắm. Bây giờ kinh tế phát triển, bọn trẻ cũng làm Tết nhưng không tự tráng phở nữa vì chỉ cần bỏ ra vài chục nghìn lên chợ mua là thoải mái ăn. Còn bánh dày thì càng hiếm người làm và ít khi bán ở chợ”. Đối với người Tày việc cúng trong ngày 14 tháng 7 (âm lịch) không bắt buộc, nhà nào có điều kiện thì làm, không có điều kiện thì thôi. 

Bà Hoa người dân tộc Tày làm bánh cho ngày Tết 14/7 (âm lịch)
Bà Hoa người dân tộc Tày làm bánh cho ngày Tết 14/7 (âm lịch)

Đối với người Sán Chỉ, Tết 14 tháng 7 (âm lịch) (sặt nhịt sặp xây) được tổ chức trong khuôn khổ gia đình hoặc dòng tộc. Đây là một hoạt động có ý nghĩa văn hóa truyền thống và là quy định bắt buộc của tộc người này.

Vào ngày này, cả làng, bản, dòng tộc làm lễ cúng gia tiên và thổ địa kính cẩn báo với các bậc linh thiêng về công việc đồng áng cấy cày vụ mùa đã xong xuôi, tiết Hạ đã qua và chuyển sang tiết Thu, nhà nông sắp sửa làm những công việc mới của tiết Thu và cầu mong mùa màng bội thu, mưa thuận gió hòa. 

Tết được các thành viên trong gia đình chuẩn bị từ hôm trước. Vào ngày 13 âm lịch, những người phụ nữ trong gia đình bắt đầu rậm rịch chuẩn bị làm bánh nếp “chíu dịp ẹt” (bánh lá chuối). Người phụ nữ Sán Chỉ nào cũng biết làm bánh và dù công việc bận rộn đến đâu cũng phải thu xếp thời gian để làm bánh trong ngày rằm tháng Bảy. 

Để có được chiếc bánh thơm ngon, ngoài bột phải xay nhuyễn thì các nguyên liệu khác kèm theo cũng được chuẩn bị chu đáo. Điều đặc biệt nhân bánh“chíu dịp ẹt” của người Sán Chỉ không nằm bên trong bánh mà nằm ở bên ngoài.

Bột sau khi say nhuyễn sẽ được đôi bàn tay khéo léo của người phụ nữ nhào thật dẻo rồi lăn đều qua lớp đường và lạc, đem gói trong lá chuối thành từng cặp bánh một, rồi cho lên đồ, hoặc hấp cách thủy, nên giữ được độ dẻo của bánh và thơm mùi thơm của lá chuối. 

Theo tục lệ của đồng bào Sán Chỉ, những chiếc bánh đầu tiên lấy ra được dâng lên thắp hương tổ tiên trước, với mong muốn cầu chúc sức khỏe, an lành, thịnh vượng đến với tất cả các thành viên trong gia đình, dòng họ sau đó các thành viên trong gia đình mới được thưởng thức. Việc cúng có luật định khá nghiêm ngặt. 

Theo ông La Văn Đạo ở thôn Pắc Liềng, xã Tình Húc: “Việc sửa soạn mâm cúng tổ tiên của người Sán Chỉ phải do người đàn ông trong gia đình thực hiện. Đối với gia đình tôi thường mời thầy đến cúng để thông báo với tổ tiên. Vật cúng quan trọng và không thể thiếu của người Sán Chỉ là “chíu dịp ẹt” (bánh lá chuối). Mỗi bát “chíu dịp ẹt” tượng trưng cho một người mà mình thờ cúng. Nhà tôi mỗi năm cúng 4 bát bánh để tỏ lòng biết ơn đối với ông bà tổ tiên”.

Còn đối với người Dao Thanh Phán Tết “sliet ha chiêp phăy chit” (14 tháng 7 âm lịch) được coi là Tết quan trọng nhất trong năm (Đây được coi là Tết Nguyên Đán của người Dao). Ông Triệu Chăn Dào – thôn Ngàn Mèo Trên, xã Lục Hồn cho biết: “Nếu vào ngày này, mưa thuận gió hòa, không có sấm chớp thì mùa màng sẽ bội thu. Do đó, mâm cỗ của dân tộc chúng tôi  to hay nhỏ đều phụ thuộc vào sấm chớp. Tết “sliet ha chiêp phăy chit” là dịp người Dao cúng mừng việc cấy xong và xin tổ tiên bảo vệ ruộng, nương, cầu cho mùa màng bội thu, con cháu dồi dào sức khỏe, may mắn. Cỗ cúng trong ngày Tết gồm: bánh chưng, gà, rượu…”.  

Mỗi sản vật được dâng lên thờ cúng tổ tiên, bày tỏ lòng hiếu kính với cha mẹ của từng tộc người trên địa bàn huyện biên giới Bình Liêu trong ngày rằm tháng bảy dù có khác nhau nhưng tất cả đều hàm chứa những giá trị văn hóa tín ngưỡng đặc sắc riêng của từng dân tộc và mang tính nhân văn sâu sắc. 

Đọc thêm