Nỗi lo thất truyền tranh Đông Hồ

(PLVN) - Dòng tranh dân gian Đông Hồ đang đứng trước nguy cơ bị mai một, thất truyền. Do nhu cầu đời sống, hơn 90% hộ dân làng Hồ bỏ nghề truyền thống. Chính vì thế, cuối tháng 3/2020, Thủ tướng Chính phủ đã có văn bản đồng ý gửi Hồ sơ quốc gia đệ trình Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa của Liên Hợp quốc (UNESCO) xem xét đưa “Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ” vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp.
Du khách tham quan làng nghề tranh Đông Hồ.
Du khách tham quan làng nghề tranh Đông Hồ.

90% hộ dân bỏ nghề

Làng tranh Đông Hồ (xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) nổi tiếng về tranh dân gian. Thuộc dòng tranh in từ ván khắc gỗ, dòng tranh Đông Hồ đặc biệt từ chất liệu làm tranh (giấy dó) cho tới màu sắc (được lấy từ tự nhiên), các bản khắc cổ và ý nghĩa của các bức tranh.

Những đề tài trên tranh phản ánh chân thực, sinh động cuộc sống bình dị, mộc mạc, cũng như nét văn hóa truyền thống của người Việt. Mỗi bức tranh đều hấp dẫn, độc đáo ở màu sắc, bố cục, khuôn hình, được làm từ những chất liệu hoàn toàn tự nhiên nên thuần khiết, ấm áp mà có lẽ chỉ riêng Việt Nam mới có.

Tranh Đông Hồ bao gồm bảy loại chính: Tranh thờ, tranh chúc tụng, tranh lịch sử, tranh truyện, tranh phương ngôn, tranh cảnh vật và tranh phản ánh sinh hoạt. Màu sắc cũng như độ tinh xảo của loại tranh dân gian khắc gỗ độc đáo.

Những bức tranh: Ðám cưới chuột, Hứng dừa, Ðánh ghen, Lợn đàn, Mục đồng thổi sáo… là những sản phẩm được sáng tạo ra bởi bàn tay và khối óc của những người con xứ Kinh Bắc. Ðó chính là những bức tranh tiêu biểu của một dòng tranh dân gian cổ xuất hiện ven sông Ðuống cách đây khoảng 400 năm. 

Thời kì cực thịnh của làng tranh Đông Hồ là vào cuối thế kỷ XIX đến những năm 40 - 50 của thế kỉ XX. Lúc ấy, làng có 17 dòng họ thì tất cả đều làm tranh và cứ khoảng tháng 7, tháng 8 hàng năm là cả làng đã tất bật chuẩn bị cho mùa tranh Tết.

Cả làng rực rỡ sắc màu của giấy điệp. Khắp nơi, không một mảnh đất trống nào không được người dân làng Hồ tận dụng để phơi giấy: Từ sân nhà, sân đình, ven các ngõ xóm, đường làng, dọc theo triền đê cho đến các nóc nhà, nóc bếp… 

Ngày nay, trong cuộc sống ngày càng hiện đại, nhu cầu chơi tranh và sử dụng tranh không còn phổ biến như trước đây nên ít có nhu cầu tiêu thụ sản phẩm với số lượng lớn dẫn đến dòng tranh dân gian Đông Hồ đang đứng trước nguy cơ bị mai một, thất truyền. 

Bức tranh Đám cưới chuột.
 Bức tranh Đám cưới chuột.

Hiện nay làng tranh Đông Hồ có hơn 90% hộ dân làng Hồ chuyển sang làm đồ vàng mã, còn nghề làm tranh dân gian ngày một phôi pha. Mỗi dịp giáp Tết, dạo quanh Đông Hồ người ta không còn thấy những sắc màu rực rỡ, cảnh nườm nượp người mua bán tranh của một Đông Hồ xưa, thay vào đó là những sản phẩm hàng mã.

Nỗ lực cứu dòng tranh truyền thống

Xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cái nôi của dòng tranh Đông Hồ giờ chỉ còn một vài gia đình nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam (đã mất vào năm 2017, giờ chỉ còn con cháu giữ nghề), nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế, nghệ nhân Trần Nhật Tấn… còn theo đuổi nghiệp cha ông.  

Hiện nay, làng tranh Đông Hồ có gần 5.000 bản khắc đang lưu giữ tại gia đình của 3 gia đình nghệ nhân nhưng hầu như bị cất trong kho, vì tranh làm ra rất ít người mua. Đáng lưu tâm hơn, thế hệ nghệ nhân, nhất là những nghệ nhân chạm khắc giỏi ngày càng ít đi, nguy cơ khan hiếm nguyên, vật liệu ngày càng cao. 

Cách đây hơn 10 năm, Trung tâm Bảo tồn tranh Đông Hồ được xây dựng trong một khuôn viên rộng khoảng 5.000m² gồm 3 ngôi nhà, trong đó có hai ngôi nhà dựng theo kiểu truyền thống. Từ cổng vào là ngôi nhà 3 gian kiểu cổ, là nơi đón tiếp khách và chế tác, thực hiện các công đoạn làm tranh cho khách tham quan; phía sau có nhà phục vụ du khách ăn uống; một ngôi nhà hai tầng trưng bày và bán sản phẩm. Chủ nhân của Trung tâm này là ông Nguyễn Đăng Chế. 

15 năm trước, ông Chế là người duy nhất bỏ tiền cá nhân sưu tầm, mua lại các bản khắc gỗ cổ, phục dựng lại dòng tranh Đông Hồ. Đến nay ông đã có được 200 bản khắc gỗ cổ. Ông động viên các con, cháu tiếp tục làm.

Bên cạnh đó, nhận thấy việc treo tranh tờ kiểu truyền thống không còn phù hợp, ông đã tìm tòi, nghiên cứu các kiểu khung tranh vừa có thiết kế gần gũi với tranh dân gian, vừa thích hợp với xu hướng trang trí nội thất hiện đại. Đồng thời, làm phong phú các mặt hàng lưu niệm, quà tặng với tranh Đông Hồ như lịch tường, lịch bàn, sổ tay, khung tranh, quạt…

Với những nỗ lực của mình, ông Chế nuôi hy vọng, khi cuộc sống khấm khá, ổn định hơn, nhiều người Việt Nam sẽ lại tìm về với tranh Đông Hồ, như tìm về một phần ký ức đẹp đẽ trong bề dày văn hoá dân tộc.

Tuy nhiên, sự nỗ lực này khó có thể cứu một dòng tranh nức tiếng Kinh Bắc. Hàng năm số lượng du khách đến tham quan và mua tranh dân gian không nhiều, chủ yếu là người nước ngoài mua số ít làm kỷ niệm. Việc truyền dạy, truyền nghề và kế nghiệp các nghệ nhân đã, đang và vẫn sẽ là những thách thức không nhỏ của công cuộc bảo tồn các di sản văn hóa, trong đó có tranh dân gian.

Được biết từ tháng 6/2014, UBND tỉnh Bắc Ninh đã phê duyệt Ðề án “Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa tranh dân gian Ðông Hồ, huyện Thuận Thành, giai đoạn 2014 - 2020 và định hướng đến 2030” với tổng kinh phí gần 60 tỷ đồng từ nguồn vốn ngân sách và các nguồn vốn khác.

Đề án một mặt khẳng định giá trị nổi bật của tranh dân gian Đông Hồ, mặt khác xác định hiện trạng, nguy cơ mai một của dòng tranh này và tìm các giải pháp quảng bá, phát huy giá trị của làng tranh trong thời kỳ hội nhập.  

Cuối năm 2019, Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch (VH-TT&DL), UBND tỉnh Bắc Ninh, Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam và Sở VH-TT&DL Bắc Ninh đã tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế “Bảo vệ và phát huy giá trị nghệ thuật tranh dân gian Đông Hồ trong đời sống đương đại”. Hơn 100 chuyên gia, nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế đã tham dự sự kiện này.

Theo các chuyên gia, có nhiều nguyên nhân khiến cho việc sản xuất của dòng tranh Đông Hồ ngày càng ít đi. Song nguyên nhân chính vẫn là thị trường tiêu thụ trong nước đã bão hòa, trong khi thị trường quốc tế chưa mở rộng. Người làm tranh còn thiếu vốn để đầu tư cơ sở sản xuất, nhà trưng bày để quảng bá sản phẩm...

Một nguyên nhân khác là nhiều thợ giỏi của Đông Hồ đã di dời đến nhiều nơi để kiếm sống hay chuyển sang đầu tư làm nghề khác cho thu nhập cao hơn. Thị trường tiêu thụ của tranh Đông Hồ hiện nay chủ yếu là khách du lịch, nhà sưu tập tư nhân hay viện nghiên cứu, trung tâm văn hóa, bảo tàng ở các nước… với số lượng không nhiều. Bởi vậy, nguy cơ thất truyền của làng nghề này trong tương lai rất lớn.

Trong nỗ lực bảo tồn dòng tranh truyền thống, UBND tỉnh Bắc Ninh đã hoàn thiện Hồ sơ khoa học “Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ” để đề nghị Bộ VH-TT&DL trình Thủ tướng Chính phủ xem xét gửi UNESCO đưa vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp và đã được Thủ tướng Chính phủ đồng ý ngày 27/3/2020 và ngày 31/3 vừa qua, Bộ VH-TT&DL đã gửi hồ sơ đệ trình UNESCO. 

Bà Lê Thị Thu Hiền - Cục trưởng Cục Di sản văn hóa:

Kế hoạch cụ thể để tiếp tục bảo vệ và phát huy giá trị di sản được xây dựng hướng tới các mục tiêu sau: Thứ nhất, có chính sách hỗ trợ, tăng cường số lượng hộ gia đình làm nghề tranh dân gian Đông Hồ. Thứ hai, trao truyền nghề cho thế hệ trẻ, nâng cao kỹ năng cho những người tham gia vào các khâu sản xuất để họ có thể thành thục cả quy trình làm tranh; giáo dục di sản trong nhà trường.

Thứ ba, cập nhật kiểm kê, tư liệu hóa, nghiên cứu khoa học chuyên sâu về nghề làm tranh dân gian Đông Hồ. Thứ tư, quảng bá, nâng cao nhận thức về di sản nghề làm tranh dân gian Đông Hồ. Thứ năm, mở rộng thị trường tiêu thụ tranh, tăng cường đầu ra, đa dạng hóa sản phẩm tranh dân gian Đông Hồ. Thứ sáu, tăng cường nguồn nguyên liệu tự nhiên và cây trồng bảo đảm phát triển bền vững Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ. Thứ bảy,  nâng cao chất lượng bảo quản ván in và tranh Đông Hồ. 

Ông Nguyễn Văn Ảnh - Phó Giám đốc Sở VH-TT&DL Bắc Ninh:

Cùng với nỗ lực của tỉnh, các đại sứ quán của Việt Nam ở nước ngoài cũng góp sức quảng bá di sản tranh dân gian Đông Hồ ra thế giới thông qua các cơ chế ngoại giao, như dùng tranh dân gian Đông Hồ làm quà tặng. Các nghệ nhân tại làng nghề cũng tích cực tham gia các hội chợ, triển lãm, hỗ trợ đào tạo nghề, tạo cơ hội cho học sinh đến trải nghiệm học làm tranh...

Đáng chú ý, thời gian gần đây, những nghệ nhân làm tranh còn lại của làng tranh Đông Hồ - với khát vọng giữ nghề, đã đưa tranh hoặc hình ảnh tranh Đông Hồ một cách sáng tạo vào đời sống hiện đại bằng cách vẽ lại tranh, thiết kế cho phù hợp rồi in trên những sản phẩm như quà lưu niệm, áo dài, áo yếm, lịch để bàn, túi vải… như cách mà nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế đã làm.

Tranh Đông Hồ còn được “hồi sinh” trong các thiết kế thời trang, thiết kế nội thất dưới bàn tay của các nghệ sĩ trẻ. Với những nỗ lực đó, tranh Đông Hồ đã bắt đầu thu hút sự quan tâm trở lại của nhiều người, đặc biệt là giới trẻ và như luồng gió lành “thổi” vào dòng tranh dân gian này một luồng sinh khí mới.

PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam:

Chúng ta cần thực hiện truyền nghề cho lớp trẻ, đồng thời duy trì được số lượng nghệ nhân làm tranh bởi đây là lực lượng giữ hồn cốt cho tranh Đông Hồ. Bên cạnh đó, để thu hút người mua tranh, việc đa dạng hóa các sản phẩm để công chúng có nhiều lựa chọn khi chơi tranh cũng là bài toán cần được tính tới. 

Nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế:

Từng được sống trong cảnh nhộn nhịp cả làng làm tranh mỗi dịp Tết đến, rồi lại chứng kiến cảnh khách mua tranh dần thưa thớt, số nhà làm tranh cũng vơi đi, tôi không khỏi chua xót. Ở Đông Hồ nhiều gia đình cũng rất tâm huyết với nghề tranh nhưng bây giờ đầu ra không có thì họ không làm được. Còn hàng mã bây giờ sống được là do cả nước có nhu cầu. Nếu bây giờ tranh Đông Hồ phát triển được như hàng mã thì vui quá. Đấy là điều tôi rất trăn trở.

T.Dương (tổng hợp)

Đọc thêm