“Thuyền trăng Hàn Mặc Tử” ở làng phong Quy Hòa

(PLVN) - Tình người ấm áp, khát vọng được sống, được yêu thương là những điều chúng tôi cảm nhận được khi đến làng phong Quy Hòa (phường Ghềnh Ráng, TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định) - nơi thi sĩ Hàn Mặc Tử gửi gắm tâm hồn đơn độc trong những ngày cuối đời. Ở nơi này, hiện có một ngư dân từng mắc bệnh phong đang làm và bán “thuyền trăng Hàn Mặc Tử”.
Một góc bình yên và thơ mộng ở làng phong Quy Hòa
Một góc bình yên và thơ mộng ở làng phong Quy Hòa

Đến làng phong Quy Hòa vào những ngày thu tháng 8 nắng vàng rực rỡ, chúng tôi hết sức ngạc nhiên và xúc động trước phong cảnh bình yên, thơ mộng với những giàn hoa giấy hồng rực trong nắng, những con đường sạch tinh không một cọng rác. Đâu đó có tiếng lao xao nói cười, trò chuyện của khách du lịch vào làng tham quan và chụp ảnh lưu niệm hay mấy em nhỏ tan học đạp xe về nhà.

Kỳ diệu thuốc tình yêu

Thung lũng Quy Hòa rộng khoảng 60ha được linh mục người Pháp Paul Maheu tìm ra trong một buổi chiều năm 1929. Ông cảm nhận nơi đây không thể tuyệt vời hơn để xây dựng một khu điều trị bệnh nhân phong mang tên Bệnh viện Laproserie de Quy Hòa. Ba năm sau, Giám đốc bệnh viện là sơ Charles Antoine và người phụ tá của mình là sơ Ozithe, vốn là kiến trúc sư đã đặt ra chương trình xây dựng lại bệnh viện và xây dựng nhà ở để người mắc bệnh phong có nơi trú ngụ kiên cố, lâu dài dựa vào việc vận động các nhà hảo tâm. 

Các em học sinh ở làng phong
Các em học sinh ở làng phong 

Trước đây, làng phong Quy Hòa bị xem là thế giới đau khổ của những mảnh đời bất hạnh mắc một trong tứ chứng nan y. Nhưng giờ đây, sự e ngại với những bệnh nhân phong không còn nữa, mà thay vào đó là những tâm hồn đồng điệu, tràn ngập yêu thương và ấm áp tình người. Những mái ấm gia đình ở đây cứ như trong chuyện cổ tích. Tại đây, hàng trăm bệnh nhân từ khắp nơi đã gặp nhau và thành vợ thành chồng, sinh con đẻ cái. Tình yêu là liều thuốc kỳ diệu giúp họ vượt qua bệnh tật và sống tốt hơn. 

Hạnh phúc giản dị của vợ chồng ông Lem, bà Hà gắn với mọi vui buồn ở làng phong
Hạnh phúc giản dị của vợ chồng ông Lem, bà Hà gắn với mọi vui buồn ở làng phong 

Ông Phạm Văn Lem (64 tuổi, dân tộc Hrê, quê ở huyện Ba Tơ, tỉnh Quảng Ngãi) và bà Phan Thị Hà (61 tuổi, dân tộc Kinh, quê ở huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam) cùng bị bệnh phong và đến đây điều trị. Những tháng ngày sống tại làng phong này, họ quý mến nhau, rồi gắn bó đời nhau, vượt qua bệnh tật, số phận bất hạnh.

Tình yêu của họ được đơm hoa kết trái là cậu con trai lành lặn, khỏe mạnh, nay đã là sinh viên năm 3 ngành điều dưỡng của Trường Đại học Đông Á tại TP Đà Nẵng. “Cơ cực mấy tôi cũng chịu được, miễn sao con học nên người, sau này trở thành người có ích cho xã hội. Con bảo, học xong sẽ quay về chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ, có thể góp phần chữa trị cho bà con bệnh phong nơi đây”, bà Hà chia sẻ.

Theo ông Trần Công Nghĩa - Chủ tịch Hội đồng bệnh nhân phong Quy Hòa, làng phong Quy Hòa hiện có gần 260 hộ với hơn 1.000 nhân khẩu sinh sống, trong đó có 435 bệnh nhân phong. Mọi người ở đây sống gắn bó nghĩa tình, không hề phân biệt vùng miền, dân tộc. Sau khi chữa bớt bệnh, họ nguyện tìm đến nhau để bù đắp khiếm khuyết, dìu nhau vượt lên nghịch cảnh. Căn bệnh quái ác có thể cướp đi cánh tay hay đôi chân nhưng không thể ngăn cản những trái tim cùng nhịp đập. 

Người bán “thuyền trăng Hàn Mặc Tử”

Trong những ngày cuối đời, thi sĩ Hàn Mặc Tử đã đến làng phong Quy Hòa như tìm cho mình một chốn nương náu, gửi gắm tâm hồn đơn độc. Ông từng viết: “Ai mua trăng tôi bán trăng cho”. Và bây giờ, tại làng phong này có một ngư dân từng mắc bệnh phong cũng “bán trăng” như ông. Đó là ông Lê Văn Chín, 51 tuổi. Nói “bán trăng” là nói vui, chứ thật ra ông Chín làm và bán những chiếc thuyền làm bằng thùng phuy, có hình dạng bán nguyệt. Ông đặt tên là “thuyền trăng Hàn Mặc Tử”, là để tưởng nhớ đến người thi sĩ tài hoa nhưng bạc mệnh từng sinh sống tại làng phong này.

Ông Chín bên chiếc “thuyền trăng Hàn Mặc Tử” kiểu thuyền nôi
 Ông Chín bên chiếc “thuyền trăng Hàn Mặc Tử” kiểu thuyền nôi

Năm 1981, khi mới 13 tuổi, cậu thiếu niên ở miền biển Phan Thiết (tỉnh Bình Thuận) phát hiện tay chân của mình mất cảm giác, kim châm vào không đau, sau đó là những cục cứng xuất hiện trên cơ thể. Biết con mình mắc bệnh phong nên gia đình đã đưa ông Chín ra Quy Hòa để điều trị. Bốn năm sau, ông khỏi bệnh rồi xin ở lại nơi này sinh sống. Đến năm 1988, ông Chín nên duyên vợ chồng với bà Võ Thị Thủy. Bà Thủy là người ở phường Ghềnh Ráng, không mắc bệnh phong nhưng thương ông tốt bụng, chịu thương chịu khó nên kết nghĩa trăm năm. 

Ở làng phong, ông Chín vừa làm những chiếc thuyền bằng nan tre để bán cho bà con ở đây đi đánh bắt hải sản ven bờ, vừa trực tiếp ra biển đánh bắt để lo cho các con ăn học. Tuy nhiên, thuyền làm bằng nan tre mỗi năm phải trét dầu rái 2 lần mới tiếp tục sử dụng và tuổi thọ cũng chỉ từ 3 - 4 năm. Việc di chuyển thuyền cũng khó khăn, bởi thuyền nặng vì nan tre nhiều và lượng dầu rái trét lên cũng rất nhiều. Vậy nên 6 năm trước, ông bắt đầu mày mò làm chiếc thuyền với nguyên liệu chính là thùng phuy để làm phương tiện cho mình đánh bắt.

Ông Chín bên chiếc “thuyền trăng Hàn Mặc Tử” kiểu thuyền nhọn
Ông Chín bên chiếc “thuyền trăng Hàn Mặc Tử” kiểu thuyền nhọn

“Tôi nghĩ thầm trong bụng, mình làm xong rồi sử dụng, nếu hiệu quả thì làm bán cho bà con. Ai ngờ nó hiệu quả hơn tôi tưởng nên tôi bắt đầu làm bán cho bà con. Tôi nghiên cứu làm ra 3 kiểu thuyền, gồm: thuyền nhọn, thuyền nôi, thuyền nôi mũi cao. Loại nào cũng dài 4m, rộng 1,2m. Mỗi chiếc tốn hết 7 thùng phuy loại 200 lít cùng với một số nguyên liệu phụ như cước, ốc vít, tre… Hiện tại, chi phí để hoàn thành mỗi chiếc thuyền khoảng 4 triệu đồng, tôi bán ra với giá 6,5 triệu đồng. Tuy nhiên, ai đặt tôi mới làm, không thì thôi. Từ ngày chuyển sang làm thuyền bằng thùng phuy, tôi bán khoảng 50 chiếc. Ngoài bà con ở làng phong, còn có một số ngư dân ở Khánh Hòa, Phú Yên cũng đến đặt làm”, ông Chín cho biết.

Ông Chín bảo, cái hiệu quả của thuyền làm bằng thùng phuy so với thuyền làm bằng nan tre là làm xong sử dụng một lần chứ không cần trét dầu rái; nhẹ và bởi chất nhựa có độ trơn nên thuận tiện đẩy trên cát để di chuyển; sóng đánh không hư hỏng; rộng rãi, độ chông chênh ít hơn; gắn được động cơ nên đỡ tốn sức chèo so với thuyền làm bằng nan tre. “Chiếc thuyền đầu tiên tôi sử dụng đã 6 năm mà không hề hấn gì. Tôi chắc chắn tuổi thọ của thuyền làm bằng thùng phuy phải trên 10 năm”, ông Chín cho nói.

Phố biển Quy Nhơn đang trên đà phát triển du lịch, trong đó có làng phong Quy Hòa. Vậy nên, ông Chín hy vọng những chiếc thuyền làm bằng thùng phuy của mình không chỉ giúp bà con làng phong thuận tiện hơn trong việc đánh bắt hải sản ven bờ, mà còn có thể tham gia phục vụ du lịch. “Nếu những chiếc thuyền làm bằng thùng phuy có thể tham gia chở khách du lịch tham quan biển Quy Nhơn thì con em bệnh nhân phong sẽ có công ăn việc làm. Như vậy, điều kiện kinh tế được nâng lên, cuộc sống sẽ đỡ vất vả hơn”, ông Chín tâm sự./.

Đọc thêm