Góc khuất một vụ tranh chấp dân sự

(PLO) - Vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là ông Trần Duy Trinh (SN 1954, xóm Nam, thôn Lương Nỗ, xã Tiên Dương, huyện Đông Anh) và bị đơn là bà Ninh Thị Tình (SN 1978, thôn Nghĩa Lại, xã Uy Nỗ, huyện Đông Anh) đã qua 5 lần xét xử nhưng vẫn gây tranh cãi. Vì sao?
Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.
Nguồn gốc tranh chấp
Diện tích 248m2 thửa số 25, tờ bản đồ số 27 tại thôn Lương Nỗ, xã Tiên Dương là đất thổ cư, sử dụng lâu đời của gia đình cụ Nguyễn Thị Tơ. Ngày 29/9/2002 (âm lịch) cụ Tơ chết không để lại di chúc. Theo tài liệu địa chính xã Tiên Dương, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Đông Anh thể hiện: Tại bản đồ địa chính 299 năm 1986, thửa đất có số thửa 37, diện tích 228m2. Tại bản đồ địa chính 364 năm 1996, thửa đất có số thửa 25, tờ bản đồ số 27, diện tích 248m2 đều đứng tên sử dụng là cụ Tơ, hai thửa đất trên là một. 
Năm 1999 thửa đất được UBND huyện Đông Anh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) cho cụ Tơ. Sau khi cụ Tơ chết, bà Tình là con gái làm thủ tục kê khai chủ SDĐ đối với thửa đất theo diện thừa kế duy nhất. UBND huyện Đông Anh cấp GCNQSDĐ ngày 05/02/2004 đứng tên hộ gia đình bà Tình. Ngày 17/5/2010, bà Tình chuyển nhượng cho bà Lê Thị Việt Hồng (SN 1975, trú tại P106, B3, tập thể Giảng Võ, quận Ba Đình, TP.Hà Nội) 138,7m2 trong thửa đất trên về phía Đông (đã được UBND huyện Đông Anh cấp GCNQSDĐ). 
Tuy nhiên, ông Trinh cho rằng ngày 27/3/1999, cụ Tơ đã nhượng lại 1/2 thửa đất ở cho vợ chồng ông với số tiền là 5.000.000 đồng, hai bên ký tên nhưng do cụ Tơ mắt kém nên bà Tình ký thay? Tuy nhiên, bà Tình không thừa nhận, cho rằng 5.000.000 đồng là mẹ bà vay của vợ chồng ông Trinh (bà Tình thừa nhận có ký giấy nhượng đất ngày 27/3/1999 mà ông Trinh nêu ra nhưng là để làm tin). Bà đi lấy chồng và sau khi mẹ mất, bà không biết việc ông Trinh đổ đất, trồng chuối, xây tường trên đất bà được thừa kế. Khi bà biết, ngăn cản thì bị ông Trinh đuổi, đánh?
Các bản án liên quan đến vụ việc.
 Các bản án liên quan đến vụ việc.
Dù đang tranh chấp như vậy nhưng ngày 17/01/2011 bà Tình đã chuyển nhượng 109,3m2 đất còn lại cho bà Trịnh Thị Mai (xã Xuân Đỉnh, huyện Từ Liêm, TP.Hà Nội) và UBND huyện Đông Anh cũng đã cấp GCNQSDĐ cho bà Mai. Ngày 30/9/2014, bà Mai nhận được Giấy mời của VKSND huyện Đông Anh, lúc đó mới “tá hỏa” biết mảnh đất đang có tranh chấp.
Phán quyết bất ổn của lần xử thứ năm
Ngày 9/9/2015, TAND huyện Đông Anh xét xử sơ thẩm vụ tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa ông Trinh và bà Tình (trước đó đã có các Bản án số 03/DSST ngày 25/01/2011, số 158/2011/DSPT ngày 24/8/2011, số 04/2013/DSST ngày 29/3/2013 và Bản án phúc thẩm ngày 28/01/2015 của TAND TP. Hà Nội) ra Bản án số 33/2015/DSST bác yêu cầu thực hiện hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ lập ngày 27/3/1999 của ông Trinh đối với gia đình bà Tình. Đây là hợp đồng vô hiệu. Điều này là đúng luật pháp, bởi trong khi thửa đất chưa có GCNQSDĐ nhưng hai bên đã chuyển nhượng cho nhau là vi phạm điều kiện chuyển nhượng, không phù hợp với quy định của Luật Đất đai và Bộ luật Dân sự năm 1995. Sau khi chuyển nhượng cho nhau, các bên đều chưa hoàn tất thủ tục sang tên tại cấp có thẩm quyền theo luật định.
Sau khi tuyên hủy GCNQSDĐ do UBND huyện Đông Anh cấp cho bà Hồng và bà Mai, TAND huyện Đông Anh giao cho ông Trinh được sử dụng 68m2 đất và tạm giao 3,3m2 đất không nằm trong GCNQSDĐ; giao bà Hồng được được sử dụng 100m2 đất; giao cho bà Mai được quyền sử dụng 80m2 đất thuộc thửa số 25, tờ bản đồ số 27 tại thôn Lương Nỗ, xã Tiên Dương. 
Như vậy, từ chỗ mua diện tích 138,7m2, bà Hồng bỗng nhiên mất 38,7m2, bà Mai mất 29,3m2. Tại sao Tòa “cắt” đất bà Tình đã chuyển nhượng và UBND huyện Đông Anh đã cấp GCNQSDĐ cho bà Hồng, bà Mai sang cho ông Trinh trong khi chính Tòa tuyên hợp đồng chuyển nhượng năm 1999 giữa mẹ con bà Tình với vợ chồng ông Trinh là vô hiệu? Xin lưu ý, diện tích đất chuyển nhượng của bà Tình cho bà Hồng chỉ có 18,8m2 nằm trong diện tích đất tranh chấp.
Các bản án liên quan đến vụ việc.
Các bản án liên quan đến vụ việc. 
Không lẽ vì bà Tình không chịu trả cho ông Trinh 1.178.000.000đ (50% theo phán quyết của Bản án số 04/2013/DSST ngày 29/3/2013) nên TAND huyện Đông Anh có “sáng kiến” buộc những người có nghĩa vụ và quyền lợi liên quan là bà Hồng, bà Mai phải “cắt” đất đã được cấp GCNQSDĐ để “bù” cho ông Trinh? 
Khi tuyên hợp đồng chuyển nhượng năm 1999 giữa mẹ con bà Tình với vợ chồng ông Trinh vô hiệu, TAND huyện Đông Anh đánh giá lỗi của các bên là ông Trinh phải chịu 40% lỗi, bà Tình phải chịu 60% lỗi? Xét lỗi khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ cho bà Hồng và bà Mai, Tòa xác định bà Tình phải chịu 90% lỗi đối với hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ cho bà Hồng và 80% lỗi đối với hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ cho bà Mai. Bà Hồng phải chịu 10% lỗi do nhận chuyển nhượng QSDĐ vào phần tranh chấp. Bà Mai do không tìm hiểu kỹ nên nhận chuyển nhượng vào phần đất đang có tranh chấp nên bà phải chịu lỗi 20%. Tòa dựa vào đâu để xác định “tỷ lệ” này?
Tòa buộc bà Tình phải thanh toán cho ông Trinh 214.000.000 đồng, thanh toán cho bà Hồng  258.000.000 đồng, thanh toán cho bà Mai  94.400.000 đồng; buộc bà Mai thanh toán công sức xây tường cho bà Hồng 1.293.000 đồng, ông Trinh 1.293.000 đồng và 2.379.000 đồng công đổ đất. 
Phán quyết này bị nguyên đơn, bị đơn, người có nghĩa vụ và quyền lợi liên quan phản bác do việc xác định phần “lỗi” thuộc các bên của Tòa là cảm tính. Ngày 22/9/2015, VKSND huyện Đông Anh có Quyết định số 05/QĐKNPT-VKS kháng nghị bản án theo thủ tục phúc phẩm, trong đó nêu rõ các phán quyết trên “là không có căn cứ, vi phạm Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2005 và gây thiệt hại cho bị đơn cũng như vượt quá yêu cầu và thẩm quyền giải quyết”.
Chưa hết, Bản án số 33/2015/DSST ngày 9/9/2015 của TAND huyện Đông Anh tuyên “Hủy GCNQSDĐ số Y 726494 ngày 17/05/2010, số vào sổ cấp giấy số 242.QĐ-BND.2011CH.00101.2011 do UBND huyện Đông Anh cấp cho bà Lê Thị Việt Hồng (ở B3 Giảng Võ, quận Ba Đình, TP.Hà Nội)”, nhưng thực tế GCNQSDĐ của UBND huyện Đông Anh cấp cho bà Hồng có số BA 862996 ngày 19/5/2010, Số vào sổ cấp GCN: 1429.QĐ-UBND.2010CH.00199.2010. 
Không biết TAND huyện Đông Anh lấy đâu ra “GCNQSDĐ số Y 726494 ngày 17/05/2010” cấp cho bà Hồng?/.

Đọc thêm