|
Biểu diễn hát văn trước Tượng đài Anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo. |
Là vùng quê giàu truyền thống văn hiến, tỉnh ta là nơi phát tích và bảo lưu nhiều làn điệu dân ca, dân vũ; có nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống độc đáo xuất hiện thời đại vương triều Trần như: múa Bài Bông, hát Xẩm, Chầu Văn, Ca trù. Đây là một trong những loại hình dân ca, dân vũ nguyên thể mang tính chất "đặc sản", độc đáo trong Di sản phi vật thể của vùng đất Thiên Trường xưa, Nam Định nay.
Nghệ thuật múa Bài Bông (hay còn gọi là bắt Bài Bông) là một trong những loại hình dân ca, dân vũ độc đáo của dân tộc trên 700 tuổi, xuất hiện từ thời Trần. Điệu múa này thường được sử dụng trong các dịp đại lễ của chốn giáo phường, trong không gian uy nghi ở nơi cửa đình, hát tại các dinh quan, đám khao vọng, chúc thọ. Theo sách "Việt Nam ca trù biên khảo", điệu múa Bài Bông do Trần Quang Khải dựng ra để ca múa trong ngày lễ Thái Bình diên yến do vua Trần Nhân Tông tổ chức sau khi đánh thắng quân xâm lược Nguyên - Mông lần thứ 3. Còn theo nhà nghiên cứu Ngô Ngọc Linh, múa Bài Bông do Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật dựng nên. Tuy nguồn gốc và tác giả đến nay vẫn chưa có sự thống nhất, nhưng qua các nguồn sử liệu có thể khẳng định, múa Bài Bông là một loại hình dân ca, dân vũ độc đáo của nước Đại Việt thời Trần. Về nghệ thuật vũ đạo, các vũ sinh khi múa được trang phục khá cầu kỳ với áo mã tiền thêu kim tuyến, chân áo đính chân chỉ hạt bột, trên mũ gắn một quả bông, hai bên đeo đèn hình hoa sen, tay cầm quạt. Đi kèm với các vũ công là đội nhạc: có quản giáp cầm trống cái giữ nhịp, người đánh đàn đáy, đàn nguyệt bốn dây (tứ đoản), đàn tam, trống mảnh, lúc tấu nhạc hợp xướng giai điệu khoan thai, thể hiện không khí vui tươi ca ngợi cảnh thái bình thịnh trị. Múa Bài Bông gồm 9 màn, nhưng phần lớn chỉ diễn 6 màn cơ bản: màn giáo đầu, bài hát Xuân (ca ngợi cảnh sắc vui tươi của đất trời và lòng người khi vào Xuân), rồi tiếp đến là các bài Hạ, Thu, Đông. Bên cạnh đó, múa Bài Bông được coi là "báu vật" của giáo phường. Thông thường chỉ có giáo phường nào lớn mạnh hay được đi hát thờ ở trong mỗi dịp tế lễ đình, dinh quan, hay vào kinh hát chầu ngự vua mới có được một đội múa Bài Bông. Về cơ bản, một đội múa Bài Bông ít nhất gồm 4 người, và tuỳ theo mức độ quan trọng của không gian diễn xướng mà tăng số lượng người lên gấp đôi (8 người hoặc 16 người), những dịp đại lễ có 32 người, 64 người.
Là một loại hình nghệ thuật truyền thống có 700 năm tuổi, hát Xẩm có nét độc đáo gắn liền với người khiếm thị, xuất hiện thời Trần. Tương truyền, ông Tổ của hát Xẩm là hoàng tử Trần Quốc Dĩnh, vì bị anh trai là Trần Quốc Toán hãm hại, mù hai mắt, đã soạn thảo những khúc hát và nhạc cụ nhanh chóng lan truyền khắp vùng. Từ đó, những người có chung hoàn cảnh mù lòa, tàn tật động viên nhau học tập noi gương hoàng tử Dĩnh vượt khó vươn lên, dùng lời ca, tiếng hát bằng nghệ thuật của chính mình. Cuối thế kỷ XIX và những thập niên đầu thế kỷ XX tại Nam Định, có nhiều hội Xẩm nổi tiếng chuyên hành nghề tại các khu phố Hàng Nâu, Hàng Đồng, Hàng Tiện, Bến Ngự, chợ Vị Hoàng, chợ Đò Chè. Về nghệ thuật, hát Xẩm thuộc loại hình hát nói kể chuyện; giai điệu hình thành chủ yếu theo giai điệu và ngữ điệu. Khác với các vùng, địa phương lân cận, các hội Xẩm, làng Xẩm Nam Định thời xưa thường vận dụng 9 điệu: Xẩm chợ, Xẩm bong, Riềm huê, Ba bực, Phồn huê, Hò Huế, Bốn mùa, Hát ai, Thập ân. Trong quá trình phát triển, những người hành nghề hát Xẩm ở Nam Định còn vận dụng hát Ví, hát Trống quân, hành vân, Lưu thủy, đánh dấu bước tiến của nghệ thuật hát Xẩm trên con đường chuyển hóa từ một loại hình ca nhạc tiến tới một kịch chủng. Về nhạc cụ, hát Xẩm sử dụng đàn song, đàn bầu, nhị là chủ yếu; giữ nhịp chờ cho tiếng hát là tiếng sênh cặp kè, tiếng trống mảnh làm tăng tính kịch cho câu ca. Theo thống kê, có gần 400 bài hát Xẩm và chuyện Xẩm có nội dung, cốt truyện. Nhìn chung, các bài hát Xẩm rất phong phú về đề tài. Thời kỳ đất nước bị đô hộ, các nghệ nhân hát Xẩm với tấm lòng yêu nước, căm thù giặc đã sáng tác nhiều bài hát Xẩm tố cáo sự bóc lột vô nhân đạo của bè lũ thực dân, phong kiến đương thời; ca ngợi những tấm gương anh hùng dân tộc đã xả thân cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong kháng chiến chống Pháp, những hội Xẩm và những người hành nghề hát Xẩm là hạt nhân văn nghệ đóng góp vào hoạt động văn nghệ quần chúng, phục vụ kháng chiến. Những nghệ nhân như: Hà Thị Cầu, Trần Thị Nhớn, Phạm Văn Hinh, Phạm Văn Trung, Nguyễn Văn Khoản, Nguyễn Phong Sắc… là những gương mặt tiêu biểu của loại hình nghệ thuật hát Xẩm. Đặc biệt, sau năm 1954, các nghệ nhân hát Xẩm Nam Định cùng với các làng Xẩm, hội Xẩm Ninh Bình, Hà Nội tham gia tích cực các phong trào cách mạng chống di cư ở Kim Sơn (Ninh Bình) và các huyện ven biển, tuyên truyền các phong trào yêu nước, vạch mặt âm mưu thâm độc của kẻ thù. Đó là đóng góp của các nghệ nhân nói riêng và bộ môn nghệ thuật hát Xẩm nói chung đối với sự nghiệp cách mạng.
Trong loại hình diễn xướng dân gian, theo các nhà nghiên cứu, Nam Định là cái nôi của nghệ thuật Chầu văn. Trong sách Kiến văn tiểu lục, nhà bác học Lê Quý Đôn ghi: "Thời Trần có lối hát trước mặt đế Vương, gọi là hát Chầu." Trong nghệ thuật Chầu văn, ngoài việc vận dụng các làn điệu dân ca phối hợp với các bộ gõ, bộ dây (nhạc cụ), Chầu văn Nam Định được biết đến các làn điệu độc đáo như: điệu cờn, điệu xá, điệu chèo đò mang đậm chất trữ tình, sâu lắng. Không gian của Chầu văn cổ truyền là ở các đền, phủ, miếu thường có kết hợp với hầu bóng. Như vậy, từ trong các đền, phủ, với vai trò như một phương tiện nghệ thuật phục vụ tín ngưỡng tâm linh, Chầu văn đã "chuyển mình" vào sân khấu có sức sống lan toả trong đời sống, đáp ứng nhu cầu thưởng thức văn hoá nghệ thuật của các tầng lớp nhân dân. Các bài hát văn được soạn lời mới có nội dung ca ngợi tình yêu quê hương đất nước, cổ vũ khối đoàn kết toàn dân chung sức, đồng lòng đứng lên đánh giặc, chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc. Năm 1962, tại hội diễn ca múa nhạc dân tộc khu vực phía Bắc, tiết mục "Nam Định quê tôi" do đoàn văn công Nam Định biểu diễn đã tạo nên sức sống mới của nghệ thuật Chầu văn. Và từ đó, các tiết mục hát văn do diễn viên độc tấu, song tấu, tam ca, tốp ca, tốp múa xuất hiện ngày càng nhiều trên sân khấu, được công chúng đón nhận, trở thành phương tiện nghệ thuật phục vụ có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị. Qua giọng hát của NSƯT Kim Liên, Thế Tuyền, Kim Ngân, nghệ thuật Chầu văn và các tiết mục hát văn Nam Định ngày càng có sức lan toả trong tình cảm của công chúng như các tiết mục: "Gái đảm Nam Hà", "Mùa sen dâng Bác", "Trẩy hội quê hương", "Hoa dũng sỹ", "Mừng Việt Nam đại thắng". Hiện nay, các đơn vị nghệ thuật của tỉnh và các tổ, đội văn nghệ quần chúng địa phương tổ chức sưu tầm, nghiên cứu, dàn dựng nhiều tiết mục hát văn và nghệ thuật Chầu văn qua các giá đồng, tham dự các hội diễn, liên hoan khu vực và toàn quốc đoạt nhiều giải thưởng cao. Tại lễ hội Phủ Dầy, vào dịp "Tháng 3 giỗ Mẹ" đều tổ chức hội thi hát văn, thu hút các cung văn mọi miền tham dự; trở thành môn nghệ thuật độc đáo, đáp ứng nhu cầu thưởng thức và hưởng thụ văn hoá, văn nghệ ngày càng cao của các tầng lớp nhân dân.
Đất Thiên Trường xưa cũng được xem là nơi phát tích của nghệ thuật Ca trù xuất hiện từ thế kỷ XIII và phát triển sâu rộng tại các tỉnh Đồng bằng Bắc Bộ, tổ chức thành các giáo phường được Nhà nước phong kiến công nhận và đặt định một chức sắc trông coi giáo phường (gọi là quản giáp). Nghệ thuật Ca trù Nam Định còn gắn liền với tên tuổi của các đào nương đã vang danh sử sách cũng như phong trào diễn xướng của loại hình nghệ thuật độc đáo này tại các làng quê trong tỉnh. Đó là ca nương tài, sắc Trần Thị Ngọc Đài vùng đất Thiên Bản xưa, nay là xã Cộng Hoà (Vụ Bản), được dân gian phong là Bà Chúa Thông Khê, trở thành một trong 6 sự tích kỳ lạ của vùng đất "Thiên Bản lục kỳ". Về giá trị nghệ thuật, Ca trù Nam Định có hơn 40 thể, chia làm 3 lối hát chính: hát cửa đình, hát thi và hát chơi. Hàng năm vào mùa xuân, các làng thường mở hội, tổ chức cuộc thi ở cửa đình để tuyển chọn đào hay kép giỏi, qua đó, các đào nương chính thức làm lễ "mở xiêm áo" và được công nhận hành nghề. Hát thi có 4 giai đoạn là vãn, chầu thi, chầu cầm; trong đó, chầu thi gồm 28 thể, chầu cầm gồm 17 thể dành cho đào và kép. Hát chơi là lối hát được phổ cập, có nội dung phóng khoáng với các bài hát tả tình với các thể chính như: hát nói, hát ru, ngâm vọng, kể truyện, tỳ bà, nhịp ba cung… Trong nghệ thuật Ca trù, bên cạnh thanh nhạc thì khí nhạc có vai trò rất quan trọng, gồm cỗ phách, đàn đáy và trống chầu; lối hát Ca trù và phách đệm rất phức tạp, kết hợp phức điệu tinh tế với đàn đáy và trống chầu trở thành một bản hoà tấu đa âm sắc, tỏ rõ nội dung lời ca và cảm xúc của người hát. Đầu thế kỷ XX, Ca trù từ không gian cung đình, nơi vùng quê có xu hướng phát triển "nở rộ" tại chốn thị thành. Các nhóm hát từ các làng quê, "ly hương" đua nhau về các thành phố lớn, các trung tâm kinh tế, văn hoá để hành nghề mưu sinh, xuất hiện các đào nương chuyên nghề ca hát, tiếp rượu, phục vụ nhu cầu nghệ thuật các tầng lớp quan lại, tiểu tư sản.
Hiện nay, trong các loại hình nghệ thuật dân tộc cổ truyền thì hát Xẩm, Chầu văn, múa Bài Bông, Ca trù đang đối diện với nguy cơ "thất truyền". Điều này cho thấy, công tác xã hội hoá các hoạt động văn hoá và hiệu quả bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hoá chưa sâu rộng, tương xứng với thế mạnh và tiềm năng quê hương. Để khai thác và bảo lưu các giá trị nghệ thuật, các ngành chức năng cần mở các lớp học mời các nghệ nhân trực tiếp truyền dạy những gì tinh tuý nhất cho thế hệ trẻ góp phần lưu truyền, khai thác và quảng bá di sản văn hoá phi vật thể dân tộc trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế. Đây là trách nhiệm và cần có sự "vào cuộc" của các cấp, các ngành và toàn xã hội./.
Bài và ảnh: Việt Thắng