Ngày 7.5, tại TP.Tam Kỳ, Quảng Nam, Mạng lưới sông ngòi Việt Nam (VRN) phối hợp với đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Nam tổ chức hội thảo phát triển thủy điện bền vững – các bài học và khuyến nghị, với sự tham gia của các tỉnh, thành miền Trung và các chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành trong lĩnh vực thủy lợi – thủy điện, sông ngòi.
“Chỉ nghĩ đến lợi ích cục bộ”
Ông Lê Phước Thanh, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam khẳng định: “Khai thác tiềm năng thủy điện sẽ mang lại nguồn lợi lớn, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Tuy nhiên, nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh không được giải quyết thấu đáo trên cơ sở khoa học, để lại nhiều hậu quả xấu về môi trường sinh thái, tính nguyên vẹn của các dòng sông.
Thủy điện chưa làm tốt chức năng điều tiết lũ, cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt vào mùa khô, còn gây ngập lụt cho vùng hạ du do thủy điện xả lũ, an toàn đập. Người dân tái định cư thiếu đất sản xuất, tiềm ẩn nguy cơ tái nghèo cao, phá rừng làm nhà, làm rẫy”.
Ông Thanh nhấn mạnh, sự cố rò rỉ nước tại thân đập Thủy điện Sông Tranh 2 làm cho chính quyền và nhân dân hết sức lo lắng. Làm thủy điện ở đây người ta chỉ nghĩ đến lợi ích cục bộ, chứ không nghĩ đến lợi ích của người dân. Cái hại tương đối lớn, hậu quả hết sức nặng nề.
|
Quang cảnh hội thảo. |
Đề cập đến phát triển thủy điện những hệ lụy môi trường, xã hội, TS.Đào Trọng Hưng, thành viên VRN cho biết: “Phát triển thủy điện đã làm mất rừng, mất đất sản xuất, ảnh hưởng đến bảo tồn đa dạng sinh học, tác động xấu đến mạng lưới sông ngòi bị thay đổi thủy văn, gây địa chấn-động đất. Để làm được 1MW điện phải mất đến 16 ha rừng”.
Ông Đỗ Tài, Chủ tịch UBND huyện Đông Giang, Quảng Nam, nói: “Trên địa bàn huyện có 7 công trình thủy điện, trong đó có Thủy điện A Vương. Đất và rừng do thủy điện chiếm khoảng 2.000 ha, gần 10.000 người dân bị tác động trực tiếp. Đã đến lúc Chính phủ và Quốc hội vào cuộc giúp cho người dân ổn định về tái định cư. Phải xem lại trách nhiệm của chủ đầu tư các dự án làm ảnh hưởng vấn đề dân sinh của người dân”. |
Theo TS. Đào Trọng Hưng, đến nay có đến 119 thủy điện liên quan đến 47 khu rừng đặc dụng, mỗi khu bảo tồn của vườn quốc gia cõng đến 2,5 dự án thủy điện. Rừng quốc gia Cát Tiên (6 dự án), Hoàng Liên (6 dự án), Sông Tranh (7 dự án)....
Thủy điện Sông Tranh 2 làm mất đất lúa nước, đất rừng trồng, đất nương rẫy, cây công nghiệp, vườn nhà, đất màu ven sông suối, đất ao cá, và đất bãi chăn gia súc, gia cầm.
Tai họa đang đến
GS.TS Vũ Trọng Hồng, Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam đưa ra cảnh báo sự phát triển ồ ạt thủy điện gây mối lo, an toàn cho người dân vùng dự án: “Sự leo thang về công suất thủy điện trước năm 1975 là 300MW, năm 2010 lên đến 9.200MW và năm 2020 là 17.400MW. Sau năm 1995, có đến 800 dự án thủy điện vừa và nhỏ, riêng Quảng Nam có đến 50 dự án thủy điện nằm chằng chịt trên các dòng sông.
|
Thủy điện Sông Tranh 2 được áp dụng công nghệ Trung Quốc nên rất khó xử lý khi sự cố xảy ra. |
GS.TS Vũ Trọng Hồng đề nghị, EVN phải đánh giá lại sự ổn định của nền đập, thân đập, vai đập và có qui trình tích nước, xả lũ an toàn. Trong các sự cố thủy điện, sự cố vai đập là nguy hiểm nhất, hiện sự cố vai đập đang xảy ra đối với Thủy điện Sông Tranh 2. Vì vậy, chớ coi thường dòng nước nhỏ từ thân đập các thủy điện vì đây là “tai họa đang đến”.
TS. Đào Trọng Hưng thừa nhận: “Tại hội thảo này, chúng tôi có mời EVN để làm rõ thêm việc này nhưng họ không đến. Việc tái định cư cho đồng bào dân tộc miền núi vùng dự án theo kiểu “nhân bản vô tính”.
Một nghiên cứu khoa học về sự cố vỡ đập thủy điện được TS. Lê Anh Tuấn của Trường Đại học Cần Thơ, thành viên VRN đưa ra tại hội thảo: “Có đến 40% công trình thủy điện xây dựng ở Trung Quốc bằng công nghệ đầm lăn không an toàn. Trong đó vấn đề vỡ đập do nền móng chiếm đến 40%, đường tràn không đủ lớn 23%, thi công kém 12%, ổn định không đều 10%, áp lực nước qua lỗ cao 5%, chiến tranh phá hoại 3%, trượt mái đập 2%, nhược điểm vật liệu xây dựng 2%, sai lầm trong vận hành 2% và động đất 1%. Trong các sự cố vỡ đập nói trên, hiện Thủy điện Sông Tranh 2 đang gặp phải!”.
TS. Lê Anh Tuấn khẳng định, đến nay hoàn toàn không một chuyên gia thủy lợi – thủy điện nào dám khẳng định là có “an toàn tuyệt đối” cho tất cả các đập thủy điện. Tất cả hiện tượng bất thường xảy ra ở tất cả bộ phận của hệ thống nhà máy thủy điện phải được đánh giá và giải quyết nghiêm túc. Cần thiết phải có kịch bản vỡ đập và diễn tập các phản ứng sự cố vỡ đập. Các đập thủy điện lớn phải có cống xả khẩn cấp.
Chuyên gia thủy lợi, thủy điện, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam Lê Trí Tập bức xúc: “Phát triển thủy điện hiện nay kiểu “ăn xổi”, không quan tâm đến đời sống người dân, làm mất nhiều cái, trong đó có cái mất lòng dân, biến người dân thành “lâm tặc” bất đắc dĩ. Mất đất, mất rừng, chuyển đổi lưu vực dòng sông vô nguyên tắc. Có đem lại hàng ngàn tỷ đồng nhưng không thể mua lại một mạng người được”.
Thiên Thanh