Cải cách để tăng cường tính tự chủ của nền kinh tế!

(PLVN) - “Sinh sau, đẻ muộn”, khác với Hiệp định Đối tác Toàn điện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) có những điểm khác biệt, ảnh hưởng đến mức độ tự chủ của nền kinh tế Việt Nam.
Hội thảo do CIEM tổ chức sáng 20/1/2021.
Hội thảo do CIEM tổ chức sáng 20/1/2021.

Với sự hỗ trợ của Chương trình Ôxtrâylia Hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform), sáng nay - 20/1, CIEM tổ chức Hội thảo công bố báo cáo “Thực hiện hiệu quả Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực gắn với cải thiện tính tự chủ của nền kinh tế: Yêu cầu hoàn thiện thể chế thương mại và đầu tư ở Việt Nam”.

Nhiều khác biệt...

Ký kết vào ngày 15/11/2020, RCEP được kỳ vọng sớm đi vào thực hiện và cải thiện tiếp cận thị trường cho hàng xuất khẩu (XK) của Việt Nam. Dù vậy, thực tiễn nhập siêu của Việt Nam với khu vực RCEP trong những năm qua và hệ lụy từ gián đoạn chuỗi cung ứng do đại dịch COVID-19 năm 2020 cũng khiến một số chuyên gia Việt Nam quan ngại về lợi ích mà Việt Nam có thể thu được từ RCEP, đặc biệt là ở một khía cạnh mới hơn là mức độ tự chủ của nền kinh tế. 

Theo các chuyên gia của CIEM, việc đàm phán RCEP song song với 2 hiệp định FTA có chất lượng cao và/hoặc quy mô lớn vào bậc nhất thế giới – CPTPP và EVFTA - đòi hỏi không ít nỗ lực, hoạt động điều phối và cân nhắc.

“Tham gia vào RCEP, Việt Nam hướng nhiều hơn đến tác động “tạo thương mại” của Hiệp định này, thay vì lo ngại về cạnh tranh chiến lược của Hiệp định này với các sáng kiến khác như TPP/CPTPP. Dù vậy, Việt Nam cũng nhìn nhận một số khác biệt của RCEP so với CPTPP và EVFTA, đặc biệt là tác động ít nổi bật hơn đối với cải cách thể chế…” - ông Nguyễn Ánh Dương -Trưởng ban Nghiên cứu Tổng hợp CIEM - chia sẻ.

Nghiên cứu của CIEM cho thấy, ngoài các nội dung tương đối truyền thống như thương mại hàng hóa, quy tắc xuất xứ, SPS và TBT, RCEP còn đưa vào một số nội dung mới hơn như thương mại điện tử, cạnh tranh,... Khác với CPTPP và EVFTA, RCEP không có các Chương như môi trường, lao động, DN nhà nước,... 

“Tuy nhiên, so với các FTA ASEAN+1 khác thì RCEP đã đưa vào không ít nội dung mới, “gần” với các FTA thế hệ mới như thương mại điện tử, cạnh tranh, mua sắm chính phủ,... Bản thân RCEP vẫn giữ cách tiếp cận “tiệm tiến”, cho thấy dư địa để cải thiện chất lượng cam kết trong Hiệp định ngay cả sau khi đi vào thực thi…” - ông Dương cho hay.

Cơ hội, thách thức đan xen

Bao phủ vùng lãnh thổ với 30% dân số toàn cầu, RCEP tạo ra một thị trường lớn và tiềm năng cho XK. Theo Trưởng ban Nghiên cứu Tổng hợp CIEM, RCEP có tác động tạo thương mại, chứ không chỉ là chuyển hướng thương mại. Ngay cả với nhập khẩu, Việt Nam cũng có thể được hưởng lợi từ việc gia tăng chất lượng hàng nhập khẩu cho tiêu dùng. Cùng với việc gia tăng thương mại hàng trung gian, DN Việt Nam cũng có cơ hội tham gia sâu rộng hơn vào chuỗi giá trị và sản xuất khu vực...

Đối với đầu tư nước ngoài (ĐTNN), Việt Nam có thêm cơ hội thu hút FDI từ sự dịch chuyển đầu tư ra khỏi Trung Quốc do tác động của chiến tranh thương mại, công nghệ Mỹ - Trung Quốc, cũng như những xu hướng cân nhắc mới trong và sau đại dịch COVID-19. 

Tuy nhiên thách thức lớn, thậm chí trở nên phức tạp hơn, đó là nhìn nhận và xử lý hiệu quả nhập siêu gắn với ĐTNN ở thị trường RCEP. Thêm vào đó, sàng lọc chất lượng của dự án FDI là chủ trương đúng, nhưng thực hiện không dễ sau khi RCEP đi vào thực thi; Kiểm soát dòng vốn ĐTNN từ RCEP và hệ lụy đối với kinh tế vĩ mô vẫn là một vấn đề phức tạp; Chưa kể khó khăn trong cân đối giữa thu hút, bảo vệ nhà đầu tư và quyền xây dựng chính sách của Việt Nam. 

“Những thách thức này ít nhiều đều ảnh hưởng đến mức độ tự chủ của nền kinh tế Việt Nam!” - Viện trưởng CIEM Trần Thị Hồng Minh nhấn mạnh. 

Tăng cường tính tự chủ của nền kinh tế

Để thực thi hiệu quả RCEP, yêu cầu đặt ra là phải tăng cường tính tự chủ của nền kinh tế. Theo ông Nguyễn Ánh Dương, xử lý thách thức về thể chế phụ thuộc vào mức độ toàn diện trong cách tiếp cận của Việt Nam, và khó có thể hiệu quả nếu nhìn nhận vấn đề thương mại và ĐTNN một cách rời rạc khi thực hiện RCEP.

“Để tăng cường tính tự chủ của nền kinh tế khi thực hiện RCEP, yếu tố cải cách càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong đó, hài hòa hóa quá trình cải cách thể chế khi thực hiện các FTA như CPTPP và EVFTA có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, do CPTPP và EVFTA có tiêu chuẩn cao hơn và đã đi vào thực hiện, quá trình cải cách ở các lĩnh vực liên quan cần hướng tới các tiêu chuẩn trong Hiệp định này một cách nghiêm túc, thay vì “chờ đợi” đến khi có RCEP!” - Trưởng ban Nghiên cứu Tổng hợp CIEM nhấn mạnh.

Bên cạnh đó, việc tăng cường tính tự chủ của nền kinh tế khi thực hiện RCEP cũng đòi hỏi nỗ lực cùng phát huy vai trò trung tâm của ASEAN. Theo đó, các nước ASEAN phải gia tăng hợp tác hiệu quả, thay vì cạnh tranh với nhau theo hướng “đua xuống đáy”.

“Báo cáo nhấn mạnh thông điệp Việt Nam cần tiếp tục ủng hộ chủ nghĩa đa phương. RCEP không phải là FTA duy nhất hay là FTA cuối cùng mà Việt Nam có với các đối tác. Vì vậy, việc thực hiện RCEP cần đặt trong một cân nhắc tổng thể và toàn diện hơn về việc tham gia và đóng góp vào chủ nghĩa đa phương trong bối cảnh mới” - Viện trưởng Trần Thị Hồng Minh khẳng định.

5 nhóm giải pháp để thực hiện hiệu quả RCEP gắn với bảo đảm mức độ tự chủ của nền kinh tế Việt Nam:

1) Tiếp tục thực hiện các cải cách đối với nền tảng kinh tế vi mô nói chung, bao gồm cả chính sách cạnh tranh, môi trường kinh doanh, các thị trường nhân tố sản xuất; 

2) Đặt chính sách đầu tư ở vị trí trung tâm, gắn sâu xa hơn về một tư duy định hướng, khả thi về một số (ít) ngành cần ưu tiên phát triển, các ngành cần thúc đẩy tự do cạnh tranh, mức độ tham gia chuỗi giá trị ở khu vực RCEP, và mức độ tự chủ trong thu hút, sử dụng các dự án FDI từ khu vực RCEP;

3) Hoàn thiện chính sách thương mại, nhất quán với chính sách đầu tư, qua đó góp phần xử lý hiệu quả, hài hòa hơn vấn đề nhập siêu và nhập khẩu hàng trung gian, đồng thời phù hợp với sự tham gia của doanh nghiệp trong nước vào chuỗi giá trị khu vực RCEP; 

4) Xử lý các điểm nghẽn về hạ tầng và nguồn nhân lực, trong đó có sự tham gia của các nhà đầu tư và đối tác nước ngoài ở trình độ phù hợp; 

5) Phòng chống hiệu quả đại dịch COVID-19. 

Đọc thêm