“Đầu tư cho giao thông miền núi phía Bắc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng”

(PLVN) - Đó là chỉ đạo của Trưởng ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Văn Bình trong Hội nghị tổng kết 15 năm Nghị quyết 37/NQ-TW ngày 1/7/2004 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng - an ninh vùng trung du và miền núi phía Bắc đến 2020.
Trưởng Ban Kinh tế TW đề nghị xác định ưu tiên phát triển các loại hình giao thông vận tải theo thứ tự: đường bộ, đường sắt, đường thủy và hàng không tại miền núi phía Bắc
Trưởng Ban Kinh tế TW đề nghị xác định ưu tiên phát triển các loại hình giao thông vận tải theo thứ tự: đường bộ, đường sắt, đường thủy và hàng không tại miền núi phía Bắc

Khó khăn khi làm đường miền núi phía Bắc

Vùng trung du và miền núi phía Bắc gồm 14 tỉnh, chiếm 28,8% diện tích cả nước với dân số 11.667.200 người (12,86% cả nước) đã được Đảng và Nhà nước nhận định là vùng có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội và quốc phòng - an ninh của cả nước. Mặc dù là khu vực có tiềm năng, thế mạnh về phát triển công nghiệp khai khoáng, chế biến khoáng sản và ngành nông nghiệp; có tiềm năng lớn về du lịch,... nhưng đặc thù nhiều đồi núi cao, địa hình bị chia cắt mạnh nên việc phát triển giao thông vận tải trong khu vực gặp nhiều khó khăn.

Thực hiện Nghị quyết 37/NQ-TW, báo cáo của Bộ GTVT cho biết, hiện khu vực này đã hoàn thành cao tốc Nội Bài - Lào Cai, cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên; tuyến đường Thái Nguyên - Chợ Mới; tuyến đường Hòa Lạc - Hòa Bình, cao tốc Hà Nội - Bắc Giang. Hiện cao tốc Bắc Giang - Lạng Sơn đã hoàn thành và đang chuẩn bị triển khai tuyến cao tốc TP Lạng Sơn - cửa khẩu Hữu Nghị (dự kiến hoàn thành vào năm 2021). Như vậy, 4 tuyến cao tốc đề ra trong Nghị quyết 37 đã cơ bản được đầu tư hoàn thành. 

Về hệ thống quốc lộ, trong vùng có 6.971km quốc lộ cơ bản đã được nâng cấp, hỗ trợ liên kết Hà Nội với các tỉnh, thành, giảm chênh lệch giữa các địa phương, hình thành các hành lang phát triển kinh tế trong vùng.

Về đường sắt, hiện có 5 tuyến đường sắt quốc gia, tổng chiều dài 669km, trong đó hai tuyến đường sắt liên vận quốc tế Hà Nội – Đồng Đăng và Hà Nội – Lào Cai. Tuy nhiên, việc huy động được nguồn vốn xây mới tuyến đường sắt khổ 1.435 mm Hà Nội - Đồng Đăng và nối ray ga Lào Cai - Hà Khẩu Bắc chưa thực hiện được.

Về đường thủy nội địa, do đặc điểm địa hình nên giao thông thủy nội địa vùng Trung du miền núi phía Bắc chỉ đóng vai trò hạn chế. 

Về hàng không, trước đây có hai sân bay nhưng sân bay Nà Sản (Sơn La) xuống cấp đã dừng hoạt động, chỉ còn cảng hàng không (CHK) Điện Biên Phủ hoạt động với năng lực hạn chế, tần suất bay chưa nhiều. Hiện Bộ đang nghiên cứu đầu tư các CHK Điện Biên, Lào Cai (Sa Pa) nhưng chưa thực hiện đầu tư do nguồn lực khó khăn.

Lãnh đạo Bộ nhận định, hệ thống giao thông vận tải đã được đầu tư đáp ứng tốt hơn nhu cầu phát triển của vùng, tuy nhiên so với yêu cầu đặt ra thì còn cần tiếp tục đầu tư một số tuyến đường. 

Bộ GTVT cũng nhận định những khó khăn khi xây dựng đường giao thông tại khu vực: Nguồn lực đầu tư còn hạn hẹp, nguồn vốn ngân sách hàng năm chỉ đủ cân đối bố trí cho các dự án ODA. Việc kêu gọi đầu tư theo các phương thức xã hội hoá khó khăn do địa bàn trải rộng, dân cư thưa thớt, kinh tế vùng chưa phát triển, hiệu quả tài chính các dự án thấp.

Còn có nguyên nhân điều kiện địa hình khu vực núi cao, bị chia cắt nhiều, điều kiện thủy văn phức tạp nên suất đầu tư xây dựng các công trình lớn, quá trình khai thác thường bị xuống cấp nhanh; điều kiện khai thác chịu ảnh hưởng của sạt lở mùa mưa bão và sương mù vào mùa đông.

Ưu tiên phát triển các loại hình giao thông vận tải theo thứ tự

Để khắc phục những tồn tại nêu trên và tiếp tục thực hiện Nghị quyết 37, Bộ cho biết tiếp tục rà soát, điều chỉnh các quy hoạch phù hợp với tình hình thực tế, phù hợp với quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch kết cấu hạ tầng giao thông quốc gia, quy hoạch vùng. 

Bộ trưởng GTVT Nguyễn Văn Thể cũng yêu cầu các địa phương trong khu vực cần cụ thể hoá những đề xuất về đầu tư cao tốc, quốc lộ hay tỉnh lộ, giao thông nông thôn để phục vụ đời sống người dân từng vùng; đề nghị các địa phương chủ động dành một số vị trí đất có khả năng thương mại, phát triển khu công nghiệp, khu du lịch hoặc nghiên cứu tạo quỹ đất hai bên tuyến đường sau khi đầu tư để tạo nguồn vốn đầu tư cơ sở hạ tầng.

Tại Hội nghị, ông Nguyễn Văn Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết 37-NQ/TW của Bộ Chính trị cũng gợi mở một số phương hướng giải quyết vấn đề giao thông của vùng.

Ông Bình đề nghị cần có quy hoạch theo trục dọc để kết nối vùng trung du và miền núi Bắc Bộ với vùng Đồng bằng sông Hồng; nghiên cứu quy hoạch theo trục ngang để kết nối các tỉnh trong vùng với nhau đồng thời kết nối vùng ra hướng biển với các tỉnh vùng duyên hải Bắc Bộ. Là vùng biên giới, nằm trên cửa ngõ ra biển và kết nối các nước ASEAN với các tỉnh phía nam Trung Quốc, cần nghiên cứu để khai thác được các tiềm năng từ thị trường rộng lớn này. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu kết nối trục Đông – Tây với Lào để tạo hành lang giao thông từ nước bạn ra hướng biển. 

Với những đặc thù của vùng, ông Bình đề nghị thời gian tới, Bộ GTVT cần xác định ưu tiên phát triển các loại hình giao thông vận tải theo thứ tự là: đường bộ, đường sắt, đường thủy và hàng không. Nghiên cứu giải pháp nâng cấp sân bay Điện Biên nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội kết hợp với đảm bảo quốc phòng - an ninh trong vùng. 

“Khu vực miền núi phía Bắc là cái nôi của dân tộc, cái nôi của cách mạng, là vùng phên giậu của đất nước, là nơi đảm bảo hệ sinh thái của toàn bộ miền Bắc. Vì thế, cần xác định rõ việc đầu tư cho giao thông và phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh của vùng trung du và miền núi Bắc Bộ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng”, ông Bình chỉ đạo. 

Đọc thêm