Đề xuất lập mạng lưới quan trắc cảnh báo nguy cơ phát tán phóng xạ

(PLO) - Trong năm 2016,  các tổ máy đầu tiên có công suất 1.000MW của Nhà máy Điện hạt nhân Phòng Thành, Quảng Tây đi vào hoạt động thương mại, các tổ máy 650MW của Nhà máy Xương Giang trên đảo Hải Nam và 600MW của Nhà máy Trường Giang, Quảng Đông đã được kết nối lưới điện quốc gia của Trung Quốc. 
Cần sớm triển khai mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường.
Cần sớm triển khai mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường.

TS. Nguyễn Hào Quang, Phó Viện trưởng Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (VINATOM) cho rằng cần sớm triển khai mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường vì việc nhà máy điện hạt nhân phát tán phóng xạ là điều có thể xảy ra.

Các nhà máy này đều ở vị trí gần với biên giới trên đất liền và trên biển Việt Nam, ví dụ như Nhà máy Điện hạt nhân Phòng Thành chỉ cách Quảng Ninh khoảng 50km. Theo khuyến cáo của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), khu vực bên ngoài nhà máy điện hạt nhân cần được phân vùng để có kế hoạch ứng phó sự cố phù hợp: Vùng bảo vệ khẩn cấp (không được quy hoạch có dân cư, PAZ); vùng lập kế hoạch bảo vệ khẩn cấp (có thể có dân cư nhưng phải có kế hoạch ứng phó nhằm ngăn ngừa sự chiếu xạ đối với công chúng bên ngoài cơ sở khi xảy ra sự cố, UPZ); khoảng cách lập kế hoạch mở rộng (EPD); khoảng cách lập kế hoạch cho hàng hóa và thực phẩm (ICPD). 

Theo khuyến cáo của IAEA, đối với nhà máy điện hạt nhân có công suất lớn hơn 1.000MW thì kích thước của các vùng PAZ, UPZ, EPD và ICPD tương ứng là (3 - 5km), (15 - 30km), 100km và 300km. Như vậy, Quảng Ninh và một số tỉnh phía Bắc của Việt Nam cũng thuộc khu vực EPD và ICPD trong tương quan với Nhà máy Phòng Thành và Việt Nam cần phải chuẩn bị kế hoạch ứng phó dự phòng.

Việc thiết lập một mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường ở tầm quốc gia đòi hỏi một lượng kinh phí đầu tư lớn vào cơ sở vật chất và con người. Để có được mạng lưới quan trắc này với từng bước đầu tư thích hợp. TS Nguyễn Hào Quang cho biết: VINATOM đang xây dựng dự án theo cách phân kỳ. Giai đoạn 1 dự kiến trong năm 2017 - 2020, giai đoạn 2 dự kiến trong năm 2021 - 2025.

VINATOM đề xuất trong giai đoạn 1 tập trung đầu tư thiết bị quan trắc tại những địa phương có khả năng ảnh hưởng nhiều nhất trong trường hợp xảy ra sự cố nhà máy điện hạt nhân từ Trung Quốc. Các chuyên gia của Viện đã tiến hành khảo sát, tính toán trên cơ sở chu kỳ khí hậu trong vòng một năm, qua đó, xác định được các “điểm nóng” là Quảng Ninh (Móng Cái và Bãi Cháy), Lạng Sơn, Lào Cai, Hải Phòng, Nam Định, Nghệ An và Hà Nội (nơi đặt Trung tâm điều hành mạng lưới). Đây sẽ là các trạm mà Viện dự kiến lắp đặt và đưa vào vận hành ở giai đoạn 1.

Theo kế hoạch, ban đầu các trạm quan trắc này sẽ tập trung các máy móc thiết bị để đo dữ liệu phóng xạ môi trường trong không khí và đất, những môi trường phát tán phóng xạ chủ yếu. Bên cạnh đó, dự kiến quan trắc phóng xạ môi trường biển tại ba vị trí quan trọng nhất ở khu vực phía Bắc là Móng Cái, Bạch Long Vĩ và Nghệ An. 

Để thực hiện tốt mục tiêu quan trắc và cảnh báo phóng xạ, các trạm cần được trang bị những loại máy móc thiết yếu như thiết bị quan trắc đo suất liều bức xạ trực tuyến, thiết bị thu góp khí lưu lượng lớn, thiết bị đo thông số khí tượng (nhiệt độ, độ ẩm, tốc độ gió, lượng mưa…), thiết bị đo tia Alpha, Beta, Gamma, I-ốt phóng xạ, phổ kế Gamma…

Đây là những loại thiết bị có chức năng đo đạc dữ liệu về phóng xạ môi trường trong điều kiện bình thường cũng như trong điều kiện xuất hiện những bất thường của phóng xạ phát tán trong không khí và các dòng hải lưu. Các dữ liệu này sẽ được truyền trực tiếp về trung tâm điều hành ở Hà Nội để xử lý.

Theo đề xuất, mạng lưới quan trắc và cảnh báo phóng xạ môi trường quốc gia giai đoạn 1 tuy chỉ có tám trạm quan trắc và trung tâm điều hành nhưng cũng đem lại một lượng dữ liệu rất lớn. Để khai thác hiệu quả mạng lưới này, VINATOM sẽ lập một quy trình chặt chẽ, trong đó riêng về khâu quan trọng nhất, khai thác dữ liệu được thực hiện theo hai bước: Thứ nhất, các dữ liệu thô sẽ qua công đoạn xử lý sơ bộ để tạo thành bức tranh ban đầu về môi trường phóng xạ khu vực phía Bắc trên những thông số, kết quả đơn giản nhất.

Bước tiếp theo, thông tin sẽ được xử lý bằng cách so sánh, đối chiếu, liên hệ với các thông số kỹ thuật khác để kịp thời phát hiện tín hiệu bất thường (nếu có). Nếu phát hiện thấy tín hiệu phát xạ bất thường, các chuyên gia sẽ dựa trên các mô hình tính toán mô phỏng chuyên dụng để kiểm tra những tín hiệu đó do khối khí nào mang tới, xuất phát từ đâu, qua đó có thể dự báo được nguồn phát thải phóng xạ. 

Đọc thêm