Quy định khống chế chi phí lãi vay: Doanh nghiệp sẽ mất chủ động trong sản xuất?

(PLO) - Nghị định 20/2017/NĐ-CP (NĐ 20) quy định về quản lý thuế đối với các doanh nghiệp (DN) có giao dịch liên kết được coi là hành lang pháp lý nhằm chống chuyển giá. Tuy nhiên, một số quy định tại Nghị định này đang bị nhiều DN Việt phàn nàn là bó buộc hoạt động của họ.
Quy định khống chế chi phí lãi vay: Doanh nghiệp sẽ mất chủ động trong sản xuất?

Không phù hợp với nguyên tắc tôn trọng quyền tự do kinh doanh 

TS. Nguyễn Văn Thuận (Trường ĐH Tài chính - Marketing TP HCM): “Hiện, quy định về thu nhập doanh nghiệp cho phép các công ty được khấu trừ toàn bộ chi phí hợp lý, hợp lệ. Như vậy, việc khống chế trần tỷ lệ lãi vay ở mức 20% mâu thuẫn với luật thuế hiện hành nên cần phải có sự chỉnh sửa cho phù hợp”.

Khoản 3 Điều 8 NĐ 20 quy định: “Tổng chi phí lãi vay phát sinh trong kỳ của người nộp thuế được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập DN không vượt quá 20% của tổng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh cộng với chi phí lãi vay, chi phí khấu hao trong kỳ của người nộp thuế”. Quy định này không áp dụng với người nộp thuế là đối tượng áp dụng của Luật Các tổ chức tín dụng và Luật Kinh doanh bảo hiểm. 

Chia sẻ với PLVN, nhiều DN cho rằng, quy định khống chế chi phí lãi vay được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế của DN sẽ gây rất nhiều khó khăn cho các DN nói chung và DN kinh doanh trong các ngành nghề đòi hỏi vốn đầu tư lớn nói riêng khiến các DN e ngại khi vay vốn vì lợi nhuận không đủ bù đắp cho phần chi phí lãi vay không được trừ khi tính thuế thu nhập DN. Như vậy, quy định khống chế chi phí lãi vay đã tạo ra rào cản đối với hoạt động vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh hợp pháp của DN.

Mới đây, Cty CP Thương mại CITICOM đã gửi kiến nghị tới Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng, việc đưa ra quy định lãi vay không vượt ngưỡng 20% tổng lợi nhuận là chưa hợp lý, bởi theo quy định, các DN đều có thể được khấu trừ các loại chi phí nếu là hợp lý, hợp lệ. Trong khi DN nước ngoài thường chỉ sử dụng nguồn vốn vay với tỷ lệ nhỏ do nguồn vốn chủ sở hữu lớn thì ngược lại, hầu hết DN trong nước đều có chung đặc điểm là sử dụng nguồn vốn vay rất lớn, đến 70 - 80%. Vì vậy, CITICOM cho rằng: “Quy định này sẽ khiến đa số DN mất tính chủ động và cơ hội trong phát triển kinh doanh, mở rộng đầu tư sản xuất”. 

Hiệp hội Bất động sản Việt Nam cũng cùng chung nhận định như trên: “DN có quyền tự do vay vốn, huy động các nguồn tài chính không trái với quy định pháp luật để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Vì vậy, quy định giới hạn chi phí lãi vay của Nghị định 20/2017/NĐ-CP chưa phù hợp với nguyên tắc tôn trọng quyền tự do kinh doanh đã được ghi nhận trong Luật DN năm 2014, không phù hợp với thực tế và gây nhiều khó khăn cho DN”.

Văn bản pháp luật chồng chéo nhau

Theo quy định của Luật đầu tư, vốn đầu tư của một dự án bao gồm vốn góp của nhà đầu tư và vốn huy động. Khoản 2 Điều 14 Nghị định 43/2014/NĐ-CP  (NĐ 43) quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai, điều kiện thứ nhất về năng lực tài chính để đảm bảo việc sử dụng đất theo tiến độ của dự án đầu tư là có vốn sở hữu không thấp hơn 20% tổng mức đầu tư đối với dự án quy mô dưới 20ha hoặc không thấp hơn 15% tổng mức đầu tư đối với dự án quy mô trên 20ha. Điều kiện thứ hai là DN có khả năng huy động vốn để thực hiện dự án từ các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các tổ chức, cá nhân khác.

Như vậy, DN có quyền vay hoặc thực hiện các hình thức huy động vốn khác để triển khai dự án với tỷ lệ là từ 80 đến 85%. Với tỷ lệ vốn vay trên tổng vốn đầu tư của một dự án như quy định tại NĐ 43 thì tỷ lệ chi phí lãi vay trên tổng lợi nhuận có thể cao hơn  tỷ lệ chi phí lãi vay theo NĐ 43. Việc hai NĐ không thống nhất đã gây khó khăn cho DN trong quá trình huy động vốn.

“Vì vậy, để tạo điều kiện cho DN huy động vốn phục vụ nhu cầu đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, không nên quy định khống chế chi phí lãi vay mà chỉ cần quy định về vốn tự có của DN như quy định tại NĐ 43. Trường hợp nếu vẫn áp dụng về khống chế chi phí lãi vay, chỉ áp dụng đối với các DN có giao dịch liên kết và cần có các hướng dẫn cụ thể rõ ràng hơn về đối tượng áp dụng này” - Hiệp hội Bất động sản Việt Nam đề xuất.

Làm sao công ty mẹ có thể đầu tư vào công ty con? 

Một vấn đề khác mà các DN phải đối mặt khi NĐ 20 có hiệu lực là việc góp vốn của công ty mẹ vào công ty con trong các tập đoàn kinh tế tư nhân với mô hình công ty mẹ - con hiện đang phát triển mạnh ở nước ta hiện nay.

Trong các tập đoàn kinh tế, công ty mẹ sẽ có các hoạt động chính là đầu tư vào các công ty con thông qua việc góp vốn vào các các công ty con. Công ty mẹ là đầu mối huy động vốn vay từ các nguồn vốn trong nước và nước ngoài để cho vay lại các đơn vị thành viên và các ngân hàng, quỹ đầu tư cũng đánh giá tiềm lực toàn tập đoàn để cho vay đối với công ty mẹ nhằm tránh rủi ro. Hơn nữa, tập đoàn huy động vốn tập trung thông thường sẽ có mức lãi suất ưu đãi hơn, giảm chi phí cho DN, tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. 

“Chính vì thế, quy định của NĐ 20 tạo ra rào cản việc cho vay nội bộ giữa công ty mẹ và công ty con, làm mất đi khả năng điều tiết sức mạnh chung của một tập đoàn và cơ hội đầu tư dài hạn vào các ngành nghề cần vốn lớn, có ý nghĩa lâu dài cho nền kinh tế” – Hiệp hội Bất động sản Việt Nam có ý kiến – “Trường hợp nhằm chống việc chuyển giá giữa các DN có giao dịch liên kết, vốn là vấn đề gây ra nhiều lo ngại thời gian qua, nên chăng khống chế chi phí lãi vay chỉ áp dụng đối với các khoản vay giữa các DN có mức lãi suất thấp hơn lãi suất cho vay trung bình trên thị trường”. 

Đọc thêm