Thịt lợn nhập khẩu đã tăng 300% so với cùng kỳ

(PLVN) - Cục Thú y, Bộ NN&PTNT vừa cho biết, tính từ đầu năm đến ngày 13/4, cả nước đã nhập khẩu (NK) hơn 46 nghìn tấn thịt lợn, tăng hơn 300% so với cùng kỳ năm 2019. Lượng lợn giống NK cũng đã bằng 72,5% so với cả năm 2019.
Mặc dù Việt Nam đã NK số lượng lớn thịt lợn nhưng giá bán thịt trong nước vẫn chưa hạ nhiệt.
Mặc dù Việt Nam đã NK số lượng lớn thịt lợn nhưng giá bán thịt trong nước vẫn chưa hạ nhiệt.

Theo Báo cáo của Cục Thú y, tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam đã chấp thuận cho 24 quốc gia được phép xuất khẩu thịt và sản phẩm thịt gia súc, gia cầm vào Việt Nam, trong đó có 19 quốc gia được xuất khẩu thịt lợn và sản phẩm thịt lợn vào Việt Nam.

Hiện tại có 788 doanh nghiệp (DN) của 19 quốc gia được phép xuất khẩu thịt lợn và sản phẩm thịt lợn vào Việt Nam, trong đó nhiều nhất là Hoa Kỳ với 141DN, Tây Ban Nha 139 DN, Italy 120 DN, Pháp 61 DN…

Thịt lợn NK từ LB Nga được nhắc nhiều trong thời gian gần đây nhưng số DN của LB Nga được phép xuất khẩu thịt lợn và sản phẩm thịt lợn vào Việt Nam chỉ có 6 DN, đứng thứ 4 trong số 19 quốc gia có số DN ít nhất được phép xuất khẩu thịt lợn và sản phẩm thịt lợn vào Việt Nam.

Về số DN Việt Nam NK thịt lợn và sản phẩm thịt lợn, Theo Cục Thú y, số lượng thay đổi theo từng giai đoạn, phụ thuộc vào nhu cầu kinh doanh và tình hình thị trường. 

Trong năm 2019, có 600 DN Việt Nam NK thịt và sản phẩm thịt gia súc, gia cầm (tăng 48 DN so với năm 2018), trong đó có 150 DN NK thịt lợn và sản phẩm thịt lợn (tăng 50 DN so với năm 2018).

Từ đầu năm 2020 đến nay (13/4/2020), có 108 DN Việt Nam NK thịt lợn và sản phẩm thịt lợn.

Báo cáo của Cục Thú y cũng cho biết, năm 2019, thịt lợn và sản phẩm thịt lợn NK là 67.131 tấn (tăng 63% so với năm 2018); trong đó chủ yếu NK từ các nước: Đức, Ba Lan, Braxin, Canada, Hoa Kỳ.

Từ đầu năm 2020 đến ngày 13/4, lượng thịt lợn và sản phẩm thịt lợn NK là hơn 46.402 tấn, tăng hơn 300% so với cùng kỳ năm 2019; trong đó NK từ Canada 24,59%, Đức 19,32%, Ba Lan 14,14%, Braxin 9,50%,  Hoa Kỳ 8,39%, Tây Ban Nha 6,72%, LB Nga 4,04%... 

Với các loại thịt khác số lượng NK cũng tăng lên đáng kể. 

Nếu như năm 2019, thịt trâu, bò và sản phẩm thịt trâu, bò NK hơn 69.013 tấn (giảm hơn 10% so với năm 2018), trong đó chủ yếu NK từ các nước: Ấn Độ, Úc, Hoa Kỳ, Canada thì từ đầu năm 2020 đến ngày 13/4 đã NK hơn 37.104 tấn thịt trâu bò, trong đó thịt bò tăng khoảng 200% và thịt trâu tăng 135% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó, thịt trâu NK 99,6% từ Ấn Độ, thịt bò NK chủ yếu từ Úc 52,23%, Hoa Kỳ 29,62%, LB Nga 5,53%. Canada 3,90%...

Năm 2019, thịt gia cầm và sản phẩm thịt gia cầm NK hơn 144.330 tấn (tăng hơn 10% so với cùng kỳ 2018), chủ yếu NK từ Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Hà Lan, Ba Lan, thì từ đầu năm đến ngày 13/4 đã NK hơn 78.376 tấn; tăng 150% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó chủ yếu NK từ Hoa Kỳ 65,09%, Hàn Quốc 14,07%, Braxin 9,90%, Ba Lan 3,56%, Hà Lan 4,44%, LB Nga 0,35%.... 

Với thịt dê cừu và sản phẩm thịt dê cừu, năm 2019, NK hơn 433 tấn (giảm hơn 13, 83% so với năm 2018) thì từ đầu năm đến ngày 13/4, đã NK hơn 190 tấn; tăng so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó chủ yếu NK từ Úc, Argentina. 

Đặc biệt số lượng lợn giống NK cũng tăng rất mạnh. Lợn giống (chủ yếu là lợn giống cụ kỵ và ông bà) NK từ các nước (Hoa Kỳ, Canada, Đài Loan) trong năm 2019 là 2.494 con  và trong 3 tháng đầu năm 2020 là 1.808 con, bằng 72,5% so với cả năm 2019.

Đọc thêm