Việt Nam thu hơn 51 triệu USD từ giảm phát thải cacbon

(PLVN) - Ngày 22/10, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) và Ngân hàng Thế giới - cơ quan nhận ủy thác của Quỹ Đối tác Các-bon trong Lâm nghiệp (FCPF) sẽ ký kết Thỏa thuận Chi trả giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ. 

Với Thỏa thuận này, Việt Nam sẽ thu được 51,5 triệu USD từ việc chuyển nhượng cho FCPF hơn 10 triệu tấn cacbon. Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hà Công Tuấn trao đổi với báo chí về vấn đề này.

Thưa Thứ trưởng, ông có thể nói rõ hơn việc chúng ta thu được khoản tiền lớn từ việc chuyển nhượng cacbon?

- Tại Hội nghị về Biến đổi khí hậu của Liên Hợp quốc (LHQ) năm 2015, Việt Nam đã tham gia Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu, trong đó cam kết giảm phát thải 8% vào năm 2030 so với năm 2015, nếu có sự hợp tác giữa các quốc gia có thể giảm được đến 25%. 

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Công Tuấn.
 Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn  Hà Công Tuấn.

Trong sự kiện này, LHQ thành lập FCPF. Chúng ta đã phối hợp chặt chẽ với FCPF và với nhiều tổ chức nhất là Nauy. Năm 2018, FCPF đã công nhận Việt Nam cơ bản hoàn thành giai đoạn chuẩn bị, sẵn sàng thực thị giảm phát thải khí nhà kính do mất rừng và suy thoái rừng, bảo tồn trữ lượng cacbon rừng, quản lý rừng bền vững và tăng cường trữ lượng các-bon rừng (viết tắt là REDD+). Chúng ta đã có Chương trình quốc gia về thực thi REDĐ+ và đã luật hóa Chương trình  này trong Luật Lâm nghiệp.

Năm 2018, Bộ NN&PTNN và  FCPF đã ký Nghị định thư về việc Việt Nam là một trong những nước đầu tiên thực hiện  chuyển sang giai đoạn mới là chi trả dựa vào kết quả giảm phát thải cacbon. Trong suốt hơn 1 năm qua, chúng ta đã đàm phán với FCPF thông qua Ngân hàng Thế giới để ký Thỏa thuận chi trả giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ (ERPA).

Việc ký kết này có nhiều ý nghĩa. Thứ nhất, thể hiện quyết tâm của Đảng, Nhà nước và toàn dân ta về giảm phát thải cacbon, mất rừng, suy thoái rừng… Đồng nghĩa với đó chúng ta chuyển sang cơ chế tình toán để lượng giá được lượng phát thải khí nhà kính. Thứ hai, chúng ta có nguồn tài chính mới ổn định và trong tương lai  sẽ tăng lên do việc nỗ lực bảo vệ và phát triển rừng. Nếu thực hiện đầy đủ cam kết này, từ nay đến năm 2025, các tình Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế cam kết giảm 10,3 triệu tấn cacbon và Quỹ FCPF sẽ chi trả cho chúng ta khoảng 51,5 triệu USD. 

Việt Nam là nước thứ 5 trên toàn cầu ký với FCPF và là quốc gia đầu tiên trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương ký thoả thuận này. Việc này cho chúng ta uy tín quốc tế rất lớn, và trong nước, chắc chắn sẽ có tác động để thực hiện tốt dịch vụ môi trường rừng.

Xin ông cho biết, định hướng trong việc thực hiện ERPA cũng như việc sử dụng số tiền thu được từ thỏa thuận này? 

- Bộ NN&PTNT đã có kế hoạch chi tiết để thực thi ERPA, trong đó có một số việc phải rất khẩn trương. Đó là trình Chính phủ về quy định chính thức của Việt Nam về cơ chế tiếp nhận, đo lường cho trả tiền thu được từ dịch vụ cacbon. Tiếp đó, phải triển khai các biện pháp trên thực tiễn để đo lượng hấp thụ cacbon. Nhưng cái quan trọng là làm sao giảm được suy thoái rừng, tăng được diện tích và chất  lượng rừng. 

Dẫu chúng ta không còn nhiều dư địa để tăng diện tích rừng, nhưng chất lượng rừng phải tăng lên. Tăng được cái đó tức là tăng bể chứa cacbon, khi đó chúng ta có lượng hấp thụ cacbon cao hơn, đảm bảo cam kết trong thoả thuận ERPA, đồng thời Quỹ FCPF cũng cam kết trả cho chúng ta 5 USD/tấn hấp thụ cacbon, phần còn lại chúng ta có thể bán cho các đối tác khác. 

Ảnh minh họa
 Ảnh minh họa

Sau 6 tỉnh Bắc Trung bộ bán được tín chỉ cacbon, liệu còn những vùng nào trong tương lai có thể bán được tín chỉ này?

- Chúng tôi là rất mong muốn cơ chế tín chỉ cacbon được triển khai trên diện rộng. Tuy nhiên, riêng nước ta muốn cũng không thể tự làm được, đây là thành quả của cả cộng đồng nhân loại. Chúng tôi hiểu rằng hợp tác với FCPF như là thí điểm mà chúng ta là người đi đầu để nhân rộng ra toàn cầu và bán tín chỉ cacbon này chủ yếu bán cho những người phát thải mà những người phát thải này ở nước ngoài là chính, chúng ta chưa nhiều. Chúng tôi cũng đang trình Chính phủ song song với cơ chế ERPA này có cơ chế cho thí điểm trong nước.

Về nguyên tắc, tất cả chỗ nào  có rừng đều có thể hấp thụ cacbon và như vậy đều có tiềm năng tham gia thị trường cacbon. Chỉ có điều, đã gọi là thị trường phải có người mua, người bán, chúng ta đang mong muốn  thành cơ chế tín chỉ bắt buộc, tức là người có phát thải cacbon bắt buộc phải chi trả cho người hấp thụ cacbon. Đây là cơ chế không chỉ của nước ta mà toàn cầu. Chúng ta đang hướng đến có thị trường bắt buộc về tín chỉ cacbon thì lúc đó tất cả những khu rừng có hấp thụ cacbon đều tham gia vào thị trường này.

Nếu thị trường sớm hình thành, tôi tin rằng nước ta sẽ là quốc gia hưởng lợi vì chúng  ta không phát thải nhiều, mà hấp thụ tương đối lớn cacbon nhờ tỷ lệ bao phủ rừng rất cao..,

Trân trọng cám ơn ông!

Đọc thêm