[links()](LĐ online) - Trong quá trình nghiên cứu lựa chọn những Mộc bản triều Nguyễn liên quan đến Thăng Long -Hà Nội để công bố nhân Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, trung tuần tháng 9.2010, cán bộ, viên chức Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV (TTLTQG IV) đóng tại Đà Lạt (Lâm Đồng) lần đầu tiên tìm thấy tấm Mộc bản khắc về sự kiện vua Minh Mạng đặt tên Hà Nội - Thủ đô của đất nước.
Trước đó(ngày 24.5.2010) các nhà nghiên cứu ở TTLTQG IV lần đầu tìm thấy tấm Mộc bản khắc Chiếu dời đô nói về sự kiện Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa lư về Đại La và đổi tên thành Thăng Long cách đây đúng 1000 năm. Việc tìm thấy tấm Mộc bản đặt tên Hà Nội có thể xem là sự kiện bất ngờ nữa trước thềm Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long-Hà Nội.
Theo Thạc sĩ Phạm Thị Huệ, Giám đốc TTLTQG IV cho rằng: “Việc đặt tên Thủ đô Hà Nội thì từ trước đến nay chúng ta đã được nghe và được đọc nhiều trong sách sử và công trình của các nhà nghiên cứu, nhưng chắc chắn chưa từng được nhìn thấy tấm Mộc bản khắc chữ Hán Nôm ngược nói về sự kiện này”. Thạc sĩ Huệ vui mừng thổ lộ: Tấm Mộc bản này nằm trong khối tài liệu Mộc bản triều Nguyễn- Di sản tư liệu thế giới, đang bảo quản tại TTLTQG IV, tại hồ sơ số H22/77, Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 76, mặt khắc 17, có kích thước 43 x 23,6 cm, dày 2 cm; khổ khuôn in 23 x 34,5 cm.
Nội dung trong Mộc bản này ghi lại: Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), phủ Hoài Đức thuộc Bắc Thành trước đây, hợp với trấn Sơn Nam, đổi và đặt tên là tỉnh Hà Nội(1). Và tại thời điểm này, tỉnh Hà Nội được chia định địa hạt gồm: 4 phủ là Hoài Đức, Thường Tín, Ứng Hòa, Lý Nhân; 15 huyện là Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Từ Liêm, Thượng Phúc, Thanh Trì, Thanh Oai, Chương Đức, Sơn Minh, Hoài An, Nam Xương, Duy Tiên, Bình Lục, Phú Xuyên, Kim Bảng, Thanh Liêm(2).
Thạc sĩ Phạm Thị Huệ khẳng định: “Đây là bản khắc duy nhất trong khối Mộc bản triều Nguyễn và có thể nói là bản khắc cổ nhất được tìm thấy tính đến thời điểm hiện nay nói về sự kiện đổi và đặt tên Hà Nội, Thủ đô của đất nước”. Đây là cái mốc rất quan trọng đối với Thủ đô Hà Nội, đối với đất nước Việt Nam trong hành trình 1000 năm qua.
Xin nói thêm về vua Minh Mạng, ông tên thật là Nguyễn Phúc Đảm, sinh ngày 23.4 năm Tân Hợi (25-5-1791) tại Gia Định; là con thứ tư của vua Gia Long. Năm 1820 ông lên ngôi, đổi tên nước thành Đại Nam. Ông trị vì đất nước trong 21 năm (1820- 1840). Miếu hiệu là Thánh Tổ Nhân Hoàng đế.
Minh Mạng được đánh giá là người có nhiều công lao xây dựng và phát triển đất nước. Ông là người đã cải cách hệ thống tổ chức nhà nước từ trung ương đến địa phương. Năm 1820, khi vừa lên ngôi, ông đổi Viện Thị thư làm Văn thư phòng. Sau đó xóa bỏ dinh, trấn để phân chia lại, lập ra đơn vị mới, đó là tỉnh. Ông đặt chức Tổng đốc để đứng đầu cai quản tỉnh lớn, đặt chức Tuần phủ đứng đầu cai quản tỉnh nhỏ. Ông cho lập đồn ải ở những nơi hiểm yếu, xây dựng pháo đài ở các cửa biển, tăng cường xây dựng lực lượng thủy binh để gìn giữ biên cương đất nước. Về lĩnh vực kinh tế, Vua Minh Mạng điều phái các quan về vùng ven biển Bắc Bộ, mộ dân khai hoang, lập ấp; tiếp tục cho hoàn thành việc đào kênh Vĩnh Tế ở phía Nam. Từ năm 1821, ông cho xây dựng Quốc Sử Quán để biên soạn lịch sử, những bộ chính văn, chính sử lớn của triều Nguyễn được khởi biên từ đây. Minh Mạng là người rất quan tâm đến công tác lưu trữ, đã cho thi hành việc sưu tầm sách quý trong dân gian. Nhà vua đã trực tiếp sáng tác và biên soạn sách để lại cho hậu thế những “Di văn” có giá trị.
Theo Thạc sĩ Phạm Thị Huệ, Giám đốc TTLTQG IV cho rằng: “Việc đặt tên Thủ đô Hà Nội thì từ trước đến nay chúng ta đã được nghe và được đọc nhiều trong sách sử và công trình của các nhà nghiên cứu, nhưng chắc chắn chưa từng được nhìn thấy tấm Mộc bản khắc chữ Hán Nôm ngược nói về sự kiện này”. Thạc sĩ Huệ vui mừng thổ lộ: Tấm Mộc bản này nằm trong khối tài liệu Mộc bản triều Nguyễn- Di sản tư liệu thế giới, đang bảo quản tại TTLTQG IV, tại hồ sơ số H22/77, Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 76, mặt khắc 17, có kích thước 43 x 23,6 cm, dày 2 cm; khổ khuôn in 23 x 34,5 cm.
Nội dung trong Mộc bản này ghi lại: Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), phủ Hoài Đức thuộc Bắc Thành trước đây, hợp với trấn Sơn Nam, đổi và đặt tên là tỉnh Hà Nội(1). Và tại thời điểm này, tỉnh Hà Nội được chia định địa hạt gồm: 4 phủ là Hoài Đức, Thường Tín, Ứng Hòa, Lý Nhân; 15 huyện là Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Từ Liêm, Thượng Phúc, Thanh Trì, Thanh Oai, Chương Đức, Sơn Minh, Hoài An, Nam Xương, Duy Tiên, Bình Lục, Phú Xuyên, Kim Bảng, Thanh Liêm(2).
Sách Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ là bộ chính sử lớn của triều Nguyễn, gồm 220 quyển và 1 quyển thủ, tổng cộng 5.512 mặt khắc, do Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn, Trương Đăng Quế làm Tổng tài. Nội dung: Ghi chép các sự kiện lịch sử diễn ra dưới triều vua Minh Mạng (1820 – 1840) theo lối biên niên. Bộ sách được vua Tự Đức cho phép khắc in vào năm Tự Đức thứ 14 (1861). |
Xin nói thêm về vua Minh Mạng, ông tên thật là Nguyễn Phúc Đảm, sinh ngày 23.4 năm Tân Hợi (25-5-1791) tại Gia Định; là con thứ tư của vua Gia Long. Năm 1820 ông lên ngôi, đổi tên nước thành Đại Nam. Ông trị vì đất nước trong 21 năm (1820- 1840). Miếu hiệu là Thánh Tổ Nhân Hoàng đế.
Minh Mạng được đánh giá là người có nhiều công lao xây dựng và phát triển đất nước. Ông là người đã cải cách hệ thống tổ chức nhà nước từ trung ương đến địa phương. Năm 1820, khi vừa lên ngôi, ông đổi Viện Thị thư làm Văn thư phòng. Sau đó xóa bỏ dinh, trấn để phân chia lại, lập ra đơn vị mới, đó là tỉnh. Ông đặt chức Tổng đốc để đứng đầu cai quản tỉnh lớn, đặt chức Tuần phủ đứng đầu cai quản tỉnh nhỏ. Ông cho lập đồn ải ở những nơi hiểm yếu, xây dựng pháo đài ở các cửa biển, tăng cường xây dựng lực lượng thủy binh để gìn giữ biên cương đất nước. Về lĩnh vực kinh tế, Vua Minh Mạng điều phái các quan về vùng ven biển Bắc Bộ, mộ dân khai hoang, lập ấp; tiếp tục cho hoàn thành việc đào kênh Vĩnh Tế ở phía Nam. Từ năm 1821, ông cho xây dựng Quốc Sử Quán để biên soạn lịch sử, những bộ chính văn, chính sử lớn của triều Nguyễn được khởi biên từ đây. Minh Mạng là người rất quan tâm đến công tác lưu trữ, đã cho thi hành việc sưu tầm sách quý trong dân gian. Nhà vua đã trực tiếp sáng tác và biên soạn sách để lại cho hậu thế những “Di văn” có giá trị.
Lâm Viên
Tài liệu tham khảo:
Hồ sơ số H22/77 – Mộc bản triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV
Chú thích:
(1). Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 76, mặt khắc 17.
(2). Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 76, mặt khắc 16.
Hồ sơ số H22/77 – Mộc bản triều Nguyễn – Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV
Chú thích:
(1). Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 76, mặt khắc 17.
(2). Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ, quyển 76, mặt khắc 16.