Những nét đặc sắc của Đà Nẵng trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975

- Cá biệt có ý kiến cho rằng Đà Nẵng chỉ có tiếp quản, nghĩa là không có cả tiến công và nổi dậy.Thực tế, sau khi xác định kế hoạch giải phóng Đà Nẵng, Đặc Khu ủy Quảng Đà đã quyết định thành lập Ban chỉ huy tiền phương và cử một đồng chí Ủy viên Thường vụ đi gặp Bộ Tư lệnh Sư đoàn 304 để bàn kế hoạch phối hợp tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Đà Nẵng.

(Tiếp theo và hết)

3- Kết hợp chặt chẽ tiến công và nổi dậy giải phóng thành phố

Ngày 26-3-1975, Bộ Chỉ huy Đặc khu ủy Quảng Đà bàn phương án giải phóng Đà Nẵng. TRONH ẢNH: Đồng chí Phạm Đức Nam (áo trắng, bên phải), đồng chí Phan Hoan-Tư lệnh Mặt trận 4 (bên trái) đang trình bày phương án với Bí thư Hồ Nghinh (thứ 2, bên trái).

Ngày 26-3-1975, Bộ Chỉ huy Đặc khu ủy Quảng Đà bàn phương án giải phóng Đà Nẵng. TRONH ẢNH: Đồng chí Phạm Đức Nam (áo trắng, bên phải), đồng chí Phan Hoan-Tư lệnh Mặt trận 4 (bên trái) đang trình bày phương án với Bí thư Hồ Nghinh (thứ 2, bên trái).

Sau ngày giải phóng có nhiều ý kiến khác nhau về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Đà Nẵng trong mùa Xuân 1975. Có thể phân thành 3 loại ý kiến:

- Đà Nẵng có tiến công và nổi dậy;

- Đà Nẵng có tiến công, không có nổi dậy;

- Cá biệt có ý kiến cho rằng Đà Nẵng chỉ có tiếp quản, nghĩa là không có cả tiến công và nổi dậy.
Thực tế, sau khi xác định kế hoạch giải phóng Đà Nẵng, Đặc Khu ủy Quảng Đà đã quyết định thành lập Ban chỉ huy tiền phương và cử một đồng chí Ủy viên Thường vụ đi gặp Bộ Tư lệnh Sư đoàn 304 để bàn kế hoạch phối hợp tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Đà Nẵng. Các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Khu ủy và Quân khu, như Võ Chí Công, Chu Huy Mân cùng các bộ phận chỉ huy tiền phương của Khu ủy và Quân khu về Quảng Đà trực tiếp theo dõi và chỉ đạo. Các mũi công tác thành phố gồm đấu tranh chính trị, binh vận… đều tổ chức ra quân phối hợp hành động. Các Ban cán sự được thành lập trước đây, nay chuyển thành Ủy ban khởi nghĩa. Toàn thành phố thành lập được 27 Ủy ban khởi nghĩa, các khu phố ở quận 1 đều có 1 đến 2 Ủy ban khởi nghĩa. Các Ủy ban khởi nghĩa hướng dẫn may cờ, phát triển lực lượng tự vệ, phân công chốt giữ các vị trí… Các cơ sở như nhà máy điện, bệnh viện, liên hiệp nghiệp đoàn đều có Ủy ban khởi nghĩa. Phụ nữ thành phố thành lập được 20 Ủy ban khởi nghĩa, huy động được hàng chục xe cơ giới các loại chuẩn bị đón bộ đội vào thành phố.

Từ ngày 25-3, tàn quân địch ở phía Nam dồn về và từ Trị Thiên tràn vào, nâng tổng số quân địch ở Đà Nẵng lên 10 vạn, nhưng đều ở trong tình trạng hỗn loạn. Nguyễn Văn Thiệu cho chuyển gấp 20.000 khẩu súng ra Đà Nẵng, kêu gào “tử thủ Đà Nẵng”. Mỹ lập cầu hàng không, đưa máy bay lên thẳng và Boeing chuyển cố vấn, sĩ quan cao cấp ngụy và gia đình di tản vào Sài Gòn. Việc di tản gia đình sĩ quan ngụy càng gây thêm sự rối loạn trong hàng ngũ địch. Tinh thần quân ngụy suy sụp đến cực điểm. Trước tình thế đó, Bộ Tổng Tham mưu điện chỉ đạo Quân khu 5: “Không chờ lực lượng trên tăng cường. Vấn đề then chốt là diệt Quân đoàn I ngụy và sư đoàn lính thủy đánh bộ, không cho chúng rút chạy về co cụm ở Sài Gòn” (1). Ngày 25-3, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương ra quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận Quảng Đà do Trung tướng Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh, Thượng tướng Chu Huy Mân, Tư lệnh Quân khu 5 làm Chính ủy kiêm Bí thư Đảng ủy Mặt trận. Đảng ủy và Bộ Tư lệnh Mặt trận chỉ đạo các cánh quân giải phóng Đà Nẵng phải quán triệt tư tưởng “5 nhất”: Kịp thời nhất, nhanh chóng nhất, táo bạo nhất, bất ngờ nhất, chắc thắng nhất. Trong bức điện Gửi Anh Năm Công và Anh Hai Mạnh, ngày 27-3-1975, đồng chí Lê Duẩn chỉ đạo rất cụ thể: “Phải nhanh chóng phát động quần chúng vũ trang nổi dậy, đập tan các lực lượng kìm kẹp ở cơ sở, chiếm lĩnh các công sở, kho tàng nhà máy, thành lập chính quyền cách mạng và xáp vào vận động binh sĩ địch bỏ súng đầu hàng, làm tan rã các đơn vị quân ngụy. Các binh đoàn chủ lực phía Bắc đã có kế hoạch hành quân nhanh nhất để kịp thời hợp đồng với cánh quân phía Nam. Các anh hành động ngay, không để chậm trễ.

Bộ Chính trị khen ngợi những chiến thắng giòn giã của quân, dân Khu 5 và chờ tin đại thắng của mặt trận Đà Nẵng” (2).

Ngay trong đêm 27-3-1975, được sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Binh vận Quảng Đà, cơ sở binh vận của ta ở Trung tâm huấn luyện Hòa Cầm đã vận động binh lính nổi dậy làm binh biến, giải thoát cho hơn 3.000 binh sĩ. Các cánh quân giải phóng từ các hướng như gọng kìm siết chặt lấy Đà Nẵng.

Sáng sớm ngày 29-3, tại số nhà 245 Phan Châu Trinh, Đà Nẵng, Thường vụ Đặc Khu ủy Quảng Đà phát lệnh khởi nghĩa trong nội thành. Ủy ban khởi nghĩa các quận, khu phố và các cơ sở của ta nhanh chóng tổ chức đưa quần chúng xuống đường chiếm lĩnh các cơ quan, công sở của ngụy quyền. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các Ủy ban khởi nghĩa các quận I, II, III đã chiếm lĩnh các mục tiêu; vận động binh lính địch hạ vũ khí. Một số cơ sở nội thành được sự vận động của Ban Công vận Quảng Đà đã tổ chức đưa ô-tô ra ngoại thành đón bộ đội vào giải phóng thành phố.

Vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 29-3-1975, lực lượng biệt động thành phố đã chiếm lĩnh và treo cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam trên nóc Tòa Thị chính Đà Nẵng. Các cánh quân của ta tiến vào Đà Nẵng và 15 giờ đã hội quân tại bán đảo Sơn Trà. Cũng ngay trong chiều hôm đó, các đồng chí lãnh đạo của Khu ủy 5 và Đặc Khu ủy Quảng Đà đã vào đến nội thành Đà Nẵng. 19 giờ 30, các đồng chí đã điện báo cáo Bộ Chính trị: “Đà Nẵng giải phóng rồi. Anh Năm Công và anh Phước (Hồ Nghinh) đã vào Đà Nẵng rồi”.

4- Giữ gìn thành phố nguyên vẹn và bình yên

Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, Đà Nẵng vẫn giữ nguyên vẹn và bình yên, cuộc sống của nhân dân sớm trở lại bình thường. Ngay trong đêm giải phóng đầu tiên, đèn điện vẫn được thắp sáng trên các đường phố, trong nhà dân. Nước sinh hoạt vẫn bảo đảm. Không có cuộc “tắm máu” nào như kẻ thù rêu rao. Đây có thể xem là một “hiện tượng Đà Nẵng” (và sau đó sẽ là hiện tượng Sài Gòn). Chúng ta cắt nghĩa như thế nào về “hiện tượng” này?

Thứ nhất, đây là vấn đề được đặc biệt lưu ý trong xây dựng phương án giải phóng Đà Nẵng của Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương, của Khu ủy 5 và Đặc Khu ủy Quảng Đà, nhằm “bảo vệ nguyên vẹn thành phố, bảo vệ tài sản, tính mạng của dân, có kế hoạch tiếp tế, cứu trợ đừng để dân đói” (3).

Thứ hai, do cách đánh thần tốc của lực lượng vũ trang của ta với tư tưởng “5 nhất”: kịp thời, nhanh chóng, táo bạo, bất ngờ và chắc thắng nhất và sự kết hợp chặt chẽ, tuyệt vời giữa tiến công và nổi dậy của quân dân ta.

Thứ ba, tư tưởng nhân nghĩa và chính sách khoan hồng của ta đã mở cho ngụy quân, ngụy quyền “con đường sống, không tiêu diệt sinh mạng họ một khi họ đã buông súng đầu hàng” (4). Tư tưởng chỉ đạo của Khu ủy 5 là lấy tan rã làm tiêu diệt.

Thứ tư, lực lượng của ta đông và có kinh nghiệm trong công tác đô thị. Ủy ban Quân quản Đà Nẵng được thành lập và ra tuyên bố xóa bỏ các cấp chính quyền ngụy, giải tán các đảng phái phản động, thành lập Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời các phường, khóm; ra lệnh giới nghiêm trong thành phố từ 6 giờ tối hôm trước đến 6 giờ sáng hôm sau. Ta kịp thời chủ trương “tách súng ra khỏi lính, tách lính ra khỏi sĩ quan”; ra lệnh cho các sĩ quan, binh lính ngụy và nhân viên ngụy quyền các cấp phải ra trình diện và nộp vũ khí cho chính quyền quân quản; chỉ 10 ngày sau ngày giải phóng, số ngụy quân, ngụy quyền ra trình diện lên tới 103.900 tên, đến ngày 10-6-1975 là 117.900 tên. Ta đồng thời tăng cường công tác an ninh - chính trị, giúp nhân dân tản cư về lại quê cũ và ổn định đời sống nhân dân thành phố.

Thứ năm, nhân dân Đà Nẵng có tinh thần yêu nước, vui mừng chào đón thành phố giải phóng, tham gia và ủng hộ cách mạng. Cùng với việc khôi phục lại trật tự, ổn định đời sống nhân dân, Đà Nẵng tiếp tục huy động sức người, sức của tiếp sức cho công cuộc giải phóng các tỉnh phía Nam và chiến dịch Hồ Chí Minh với khẩu hiệu: “Sài Gòn chưa giải phóng, Đà Nẵng chưa yên”. Thành phố huy động 300 xe chở bộ đội và các phương tiện chiến tranh thu được của địch hành quân thần tốc theo chiến dịch. Những binh đoàn từ miền Bắc ngày đêm qua thành phố được tiếp thêm súng đạn, lương thực, thực phẩm để đi về phía Nam, góp phần giành toàn thắng trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Chiến thắng oanh liệt của quân và dân Đà Nẵng đã đẩy thêm quân địch vào tình thế tuyệt vọng, tinh thần suy sụp, tổ chức tan rã, chiến lược chiến thuật lâm vào thế bế tắc như đi vào ngõ cụt; tạo điều kiện và góp phần quan trọng vào thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

B.X

(1): Điện của Bộ Tổng Tham mưu gửi Quân khu 5 ngày 25-3-1975.

(2): Lê Duẩn: Thư vào Nam, ST, H, 1985, tr.381,382.

(3): Trần Thận: “Từ Hiệp định Pari đến giải phóng Đà Nẵng (27-1-1973 – 29-3-1975)”. Dẫn theo: Trên quê hương trung dũng, Nxb Thanh niên, 2000, tr.478.

(4): Đại tướng Văn Tiến Dũng: Đại thắng mùa Xuân, Nxb QĐND, H, 1976, tr221.

Đọc thêm