Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ), hay còn gọi là sổ đỏ, là sự xác nhận về QSDĐ của cá nhân, tổ chức, có giá trị dùng để thực hiện các quyền của người sử dụng đất như: cầm cố, chuyển nhượng, thế chấp… Nhiều khổ chủ cho người khác mượn sổ đỏ để thế chấp ngân hàng dẫn đến nguy cơ mất đất khi người vay không trả được nợ.
“Giao trứng cho ác”
Vợ chồng ông Danh Kia (huyện Hòn Đất – Kiên Giang) là người dân tộc thiểu số (Khmer), chịu thương chịu khó, chi xài tiết kiệm. Từ chỗ phải đi làm thuê, làm mướn, đến nay vợ chồng ông đã là chủ của 3 mảnh ruộng trên 5ha, quanh năm cho 2 vụ lúa. Khi đã có bát ăn bát để, nhớ lại cái thời cơ hàn trước đây phải chạy đôn chạy đáo vay mượn người quen, vay nợ ngân hàng mỗi khi tới mùa vụ hay nhà có công to, chuyện lớn là ông bà sẵn lòng giúp mọi người lúc khó khăn, ốm đau hoạn nạn.
Là cán bộ tín dụng ngân hàng, người đã từng giúp ông Kia làm thủ tục vay tiền nhiều lần nên T và gia đình ông Kia không chỉ có mối quan hệ công việc, mà còn coi nhau như họ hàng thân thuộc. Bởi vậy, khi T đặt vấn đề muợn sổ đỏ để vay tiền làm ăn, ông bà đã không ngần ngại giao ngay mà chẳng cần tiền bạc lờ lãi. T cam kết như đinh đóng cột: “Trong vòng 2 năm sẽ hoàn lại sổ đỏ nguyên vẹn cho ông”.
Hai năm cũng nhanh chóng trôi qua, ông Kia liên tục nhận yêu cầu trả nợ từ phía ngân hàng, còn T thì gần như hoàn toàn vô can. Ông có đốc thúc thì T hứa hết lần này đến lần khác, cứ như vậy tiền lãi quá hạn dần tăng cao. Đứng trước nguy cơ ngân hàng phát mãi tài sản để thu hồi vốn, vợ chồng ông Kia buộc lòng phải chuyển nhượng số đất đã thế chấp lấy 700 triệu đồng để trả nợ thay cho T.
Giờ thì ông Kia tự trách mình “chẳng cái dại nào giống cái dại nào”, không biết bao giờ mới lấy lại được số tiền gần 400 triệu đồng mà mình đã trả nợ thay cho T. Đúng là “giao trứng cho ác” - ông Kia than thở.
Phải ý thức được nghĩa vụ của mình
Điều 361 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình”.
Theo điều luật trên, về mặt pháp lý vợ chồng ông Kia cho T mượn sổ đỏ để thế chấp vay ngân hàng, thì vợ chồng ông Kia (bên bảo lãnh) cam kết với ngân hàng (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay T (bên được bảo lãnh) khi T không trả được nợ. Chuyện T mượn sổ đỏ để thế chấp ở ngân hàng cho thấy, vợ chồng ông Kia đã biết rõ mục đích sử dụng của T nhưng vẫn cho mượn. Như vậy, hành vi cho mượn sổ đỏ được xem là hoàn toàn tự nguyện, loại trừ dấu hiệu của tội lừa đảo để chiếm đoạt tài sản.
Để đòi lại số tiền đã trả nợ thay cho T, ông Kia có quyền khởi kiện ra Tòa án huyện nơi T cư trú. Tuy nhiên, do nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự là của đương sự nên khi khởi kiện, ông Kia cần phải thu thập đầy đủ chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, chẳng hạn như giấy tờ cho mượn sổ đỏ, chứng từ trả tiền ngân hàng, hợp đồng bảo lãnh được lập giữa ông Kia với ngân hàng…
Trước khi khởi kiện, ông Kia có thể làm đơn đề nghị lãnh đạo ngân hàng nơi T công tác để can thiệp, hoặc hòa giải ở tại cơ sở. Nếu mọi nỗ lực không mang lại kết quả thì mới lựa chọn giải pháp cuối cùng là khởi kiện.
Việc cho mượn giấy tờ nhà đất không chỉ đơn thuần là mượn một tấm giấy, mà chính là đem tài sản của mình ra bảo lãnh cho một giao dịch dân sự, vì vậy người cho mượn phải hiểu biết đầy đủ về giao dịch này, tránh trường hợp đáng tiếc vừa mất tài sản lại mất luôn cả tình cảm gia đình, bạn bè thân thuộc.