Rõ tiêu chí tránh tràn lan kháng nghị quá hạn

 Đây là cơ chế mới theo dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS). Tuy nhiên, còn nhiều ý kiến lo ngại, cho kháng nghị quá hạn sẽ dẫn tới tình trạng tràn lan.

Đây là cơ chế mới theo dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS). Tuy nhiên, còn nhiều ý kiến lo ngại, cho kháng nghị quá hạn sẽ dẫn tới tình trạng tràn lan.

Kéo dài thời hạn hay kháng nghị bất cứ lúc nào?

Hiện nay, BLTTDS không quy định thời hạn cho đương sự gửi đơn khiếu nại giám đốc thẩm mà chỉ quy định thời hạn cho người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm là 03 năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

Quang cảnh một phiên tòa dân sự
Quang cảnh một phiên tòa dân sự

Tuy nhiên, theo bà Lê Thị Thu Ba, Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp thì thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự trong thời gian qua cho thấy, có nhiều trường hợp gần hết thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, Tòa án, Viện kiểm sát mới nhận được đơn khiếu nại của đương sự nên không có đủ thời gian để xem xét; có trường hợp đương sự gửi đơn trong thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nhưng không được người có thẩm quyền xem xét hoặc không kịp thời phát hiện các sai sót, do đó khi phát hiện có sai lầm của bản án, quyết định của Tòa án thì đã hết thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của đương sự.

“Tình trạng này đã tồn tại từ nhiều năm nay nhưng không có cơ chế để giải quyết”, bà Ba khẳng định. Để tháo gỡ vướng mắc nêu trên, theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trường hợp đương sự đã gửi đơn đề nghị giám đốc thẩm trong thời hạn quy định (01 năm) nếu người có thẩm quyền không xem xét hoặc đã xem xét nhưng không phát hiện được vi phạm, đến khi hết thời hạn kháng nghị mới phát hiện bản án, quyết định có sai phạm thì họ vẫn có quyền kháng nghị.

Tán thành với quy định nêu trên, song Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Nguyễn Văn Thuận tỏ ra lo ngại: “bản án này tôi cho là sai lầm nghiêm trọng, người khác lại không cho là như vậy, nên vấn đề phải làm rõ tiêu chí để có cơ sở kháng nghị”.

Cũng lo lắng, nhưng lo vì “không quy định thời hạn thì bất cứ bản án, quyết định nào cũng có thể bị kháng nghị bất cứ lúc nào”, Phó Chánh án TANDTC Từ Văn Nhũ cho rằng quy định “vô thời hạn” như vậy sẽ ảnh hưởng đến tâm lý các bên đương sự. Và giải pháp được ông Nhũ đưa ra là kéo dài thời hạn kháng nghị thêm một, hai hoặc ba năm nữa.

Chỉ kháng nghị quá hạn khi có đủ điều kiện

Giải thích vấn đề này, theo Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Thu Ba: cơ chế nói trên nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đề cao trách nhiệm của người có thẩm quyền kháng nghị, nhưng có tính đến đặc thù của tố tụng dân sự như tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự, xuất phát từ yêu cầu của đương sự để xem xét từng trường hợp cụ thể...

“Dự thảo Luật cần phải có quy định về trình tự, thủ tục nhận đơn và xem xét đơn của đương sự nhằm bảo đảm tính công khai, minh bạch; tạo cơ sở pháp luật cho người dân, cơ quan có thẩm quyền thực hiện giám sát hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát trong việc giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm của các đương sự”.

(Nguồn: Ủy ban thường vụ Quốc hội)

Để tránh xảy ra tình trạng kháng nghị tràn lan, bà Thu Ba cho biết: dự thảo Luật đã được chỉnh lý theo hướng quy định những tiêu chí chặt chẽ đối với những trường hợp kháng nghị mà không phụ thuộc vào thời hạn kháng nghị.

Theo đó, việc kháng nghị quá hạn đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật chỉ được tiến hành khi có đầy đủ các điều kiện là: đương sự tiếp tục có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm sau khi hết thời hạn kháng nghị; bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật theo quy định tại Điều 283 của BLTTDS xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm phạm lợi ích của Nhà nước và phải kháng nghị để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó.

Huy Hoàng

Đọc thêm