TS Lê Anh Tuấn - phó giám đốc Bệnh viện Phụ sản trung ương - cho biết trong sáu tháng qua hơn 2.000 sản phụ có xét nghiệm tại viện dương tính với Rubella, trong đó hơn một nửa trường hợp chấp nhận phá thai. Thống kê này vẫn chưa đầy đủ vì còn có thêm Bệnh viện Phụ sản Hà Nội, chuyên khoa sản các bệnh viện khác tiếp nhận và thực hiện đình chỉ thai nghén với đối tượng thai phụ đặc biệt này.
Hàng ngàn đứa trẻ bị bỏ đi một cách oan uổng
Hàng ngàn đứa trẻ bị bỏ đi một cách oan uổng
Con số bỏ thai quá lớn khiến các bác sĩ hoang mang và đau lòng. Bác sĩ Phan Văn Quý - trưởng khoa điều trị tự nguyện Bệnh viện Phụ sản trung ương - cho hay dù khoa điều trị có điều kiện tốt hơn các khoa khác, nhưng vào đợt dịch cao điểm tháng 5, tháng 6 cũng chịu cảnh quá tải bệnh nhân bỏ thai, xếp nằm ghép vẫn không đủ giường.
|
Tuy nhiên, đến tháng 7 một nghiên cứu được thực hiện tại bệnh viện đã đưa ra con số: trong 103 trường hợp đã phá thai vì Rubella, kết quả xét nghiệm sinh hóa miễn dịch máu cuống rốn sau đó cho thấy chỉ có 17 trường hợp trẻ mang virut Rubella khi chào đời.
“Theo thống kê này, dù chưa đầy đủ, chỉ có 16,5% trường hợp đình chỉ sinh là chính xác (trẻ ra đời có khả năng mang hội chứng Rubella), còn lại đều là con số phòng xa”. Điều đó cũng có nghĩa, 83,5% thai phụ vội vàng làm đơn xin phá thai vì nghi rubella, sợ con sinh ra mắc hội chứng rubella là… phá nhầm và tương ứng là ngần ấy đứa trẻ đã bị bỏ đi một cách oan uổng.
Trong hàng nghìn sản phụ có quyết định đình chỉ thai nghén và tự nguyện xin phá thai (chủ yếu ở nhóm thai phụ nhiễm bệnh sau tháng thứ ba) có rất nhiều trường hợp hiếm muộn, điều trị mãi mới phôi thai được đứa con đầu tiên, rốt cục đành dứt bỏ.
Trong hàng nghìn sản phụ có quyết định đình chỉ thai nghén và tự nguyện xin phá thai (chủ yếu ở nhóm thai phụ nhiễm bệnh sau tháng thứ ba) có rất nhiều trường hợp hiếm muộn, điều trị mãi mới phôi thai được đứa con đầu tiên, rốt cục đành dứt bỏ.
Theo các bác sĩ, từ trước đến nay việc chẩn đoán trẻ nhiễm Rubella gặp rất nhiều khó khăn. Các xét nghiệm dù cho kết quả dương tính nhưng không xác định được thời điểm thai phụ nhiễm virut, không xác định được thời điểm phát ban. Ngay cả khi bệnh nhân nhớ được tuần thai phát ban cũng không ai chắc là nhiễm mới hay tái nhiễm. Chưa kể rất nhiều bệnh nhân nhiễm virut mà không bị phát ban điển hình, càng gây khó cho chẩn đoán. Theo TS Tuấn, tư vấn đình chỉ đôi khi là bất đắc dĩ vì không có cách nào biết được chính xác đứa bé sinh ra có bị dị tật hay không, tuy nhiên các bác sĩ không có lựa chọn nào khác.
Theo cách lý giải của các bác sĩ BV Phụ sản Trung ương thì 83,5% số ca có IgG (+) và IgM (-) (không dương tính với virus rubella), tuy nhiên không hẳn IgM (-) là không bị rubella. Tại BV Phụ sản Trung ương thời gian này có 28 trẻ sinh ra bị hội chứng rubella bẩm sinh, 4 trường hợp tử vong... Những trường hợp này là do mẹ không phát hiện nhiễm rubella khi có thai. Và trong 28 trẻ sinh ra mắc hội chứng này, thì xét nghiệm chỉ có 23/28 trẻ có cả 2 chỉ số IgG và IgM dương tính, 5 trẻ còn lại rõ ràng mắc hội chứng này nhưng xét nghiệm chỉ có IgG (+), còn IgM (-). Việc đưa ra quyết định đình chỉ thai hay tư vấn đình chỉ thai đối với mỗi bác sĩ là cực kỳ khó khăn.
Lỗi do đâu?
TS. Lê Anh Tuấn nhấn mạnh, thông thường nếu thai phụ mắc bệnh khi mang thai dưới 12 tuần, cả hai chỉ số IgG và IgM trong xét nghiệm sinh hóa miễn dịch đều dương tính, có biểu hiện lâm sàng (sốt, phát ban), có nguồn lây (nghĩa là chắc chắn mắc rubella) thì được chỉ định bỏ thai. Những trường hợp còn lại sẽ được tư vấn kỹ càng, còn quyết định giữ hay bỏ là tùy thuộc lựa chọn của các thai phụ. Thậm chí có trường hợp nghi mắc rubella, bác sĩ tư vấn chờ thêm nhưng bệnh nhân vẫn xin được phá thai… Chính điều đó đã đẩy tỷ lệ phá thai lên cao.
Dù vậy, không thể phủ nhận rằng nguyên nhân chính dẫn đến việc các thai phụ đưa ra quyết định xin phá thai là dựa vào lời tư vấn của các bác sĩ. Ông Tuấn cho rằng, bệnh rubella (sởi Đức) năm nay bùng lên thành dịch lớn, trong đó tỷ lệ thai phụ nhiễm rubella cũng tăng đột biến so với các năm trước. “Cũng vì thế, trong số bác sĩ, nhiều người không hiểu rõ nên việc tư vấn không nhất quán. Nhiều người chỉ biết đến bệnh trên sách vở chứ chưa gặp trực tiếp”, TS. Tuấn cho biết.
TS. Lê Anh Tuấn nhấn mạnh, thông thường nếu thai phụ mắc bệnh khi mang thai dưới 12 tuần, cả hai chỉ số IgG và IgM trong xét nghiệm sinh hóa miễn dịch đều dương tính, có biểu hiện lâm sàng (sốt, phát ban), có nguồn lây (nghĩa là chắc chắn mắc rubella) thì được chỉ định bỏ thai. Những trường hợp còn lại sẽ được tư vấn kỹ càng, còn quyết định giữ hay bỏ là tùy thuộc lựa chọn của các thai phụ. Thậm chí có trường hợp nghi mắc rubella, bác sĩ tư vấn chờ thêm nhưng bệnh nhân vẫn xin được phá thai… Chính điều đó đã đẩy tỷ lệ phá thai lên cao.
Dù vậy, không thể phủ nhận rằng nguyên nhân chính dẫn đến việc các thai phụ đưa ra quyết định xin phá thai là dựa vào lời tư vấn của các bác sĩ. Ông Tuấn cho rằng, bệnh rubella (sởi Đức) năm nay bùng lên thành dịch lớn, trong đó tỷ lệ thai phụ nhiễm rubella cũng tăng đột biến so với các năm trước. “Cũng vì thế, trong số bác sĩ, nhiều người không hiểu rõ nên việc tư vấn không nhất quán. Nhiều người chỉ biết đến bệnh trên sách vở chứ chưa gặp trực tiếp”, TS. Tuấn cho biết.
Cũng theo ông Tuấn, thông thường việc tư vấn rubella được các bác sĩ dựa vào 4 yếu tố: nguồn lây, biểu hiện lâm sàng, xét nghiệm sinh hóa miễn dịch và tần suất mắc ở từng tuổi thai đã được công bố trên thế giới. Tuy nhiên, việc tư vấn chỉ dựa vào 4 yếu tố như vậy vẫn có thể có những trường hợp thai phụ nghi mắc rubella nhưng trẻ sinh ra không bị nhiễm.
Theo TS Trần Danh Cường, phó giám đốc trung tâm Chẩn đoán trước sinh (bệnh viện Phụ sản Trung ương) cho biết, dị tật thai nhi do virút rubella gây ra khó phát hiện khi siêu âm. Tất cả chỉ dựa trên kinh nghiệm của bác sĩ khai thác trên tiền sử bệnh nhân, và điều quan trọng nhất là mắc vào giai đoạn nào của chu kỳ thai. Các bác sĩ chẩn đoán bệnh chủ yếu dựa vào nguồn lây bệnh, dấu hiệu lâm sàng như sốt, phát ban, thời gian mắc bệnh… và xét nghiệm sinh hoá miễn dịch.
Cũng theo TS Cường, thai phụ mang thai dưới 18 tuần tiếp xúc với người mới mắc bệnh rất dễ bị lây. Nếu mắc bệnh khi mang thai dưới 12 tuần nên bỏ. Trong vòng 12 – 18 tuần, các bà mẹ sẽ được tư vấn bỏ hay giữ theo tuổi thai và tần suất xuất hiện của bệnh. Nếu thai đã quá 18 tuần thì cần theo dõi tránh nhiễm trùng thai nhi. Tuy nhiên, tất cả các trường hợp mắc rubella đều được tư vấn kỹ càng, còn việc bỏ thai hay không là quyết định của gia đình! Trao đổi với phóng viên báo Sài Gòn Tiếp Thị, TS Nguyễn Viết Tiến, thứ trưởng bộ Y tế, giám đốc bệnh viện Phụ sản Trung ương cũng khẳng định: quyết định bỏ thai khi bác sĩ nghi ngờ thai phụ nhiễm rubella trong thời gian nguy hiểm là của gia đình chứ không bắt buộc. Bác sĩ chỉ có nhiệm vụ khám, tư vấn cho người bệnh.
Làm sao để giảm được số ca phá nhầm?
Theo TS Trần Danh Cường, phó giám đốc trung tâm Chẩn đoán trước sinh (bệnh viện Phụ sản Trung ương) cho biết, dị tật thai nhi do virút rubella gây ra khó phát hiện khi siêu âm. Tất cả chỉ dựa trên kinh nghiệm của bác sĩ khai thác trên tiền sử bệnh nhân, và điều quan trọng nhất là mắc vào giai đoạn nào của chu kỳ thai. Các bác sĩ chẩn đoán bệnh chủ yếu dựa vào nguồn lây bệnh, dấu hiệu lâm sàng như sốt, phát ban, thời gian mắc bệnh… và xét nghiệm sinh hoá miễn dịch.
Cũng theo TS Cường, thai phụ mang thai dưới 18 tuần tiếp xúc với người mới mắc bệnh rất dễ bị lây. Nếu mắc bệnh khi mang thai dưới 12 tuần nên bỏ. Trong vòng 12 – 18 tuần, các bà mẹ sẽ được tư vấn bỏ hay giữ theo tuổi thai và tần suất xuất hiện của bệnh. Nếu thai đã quá 18 tuần thì cần theo dõi tránh nhiễm trùng thai nhi. Tuy nhiên, tất cả các trường hợp mắc rubella đều được tư vấn kỹ càng, còn việc bỏ thai hay không là quyết định của gia đình! Trao đổi với phóng viên báo Sài Gòn Tiếp Thị, TS Nguyễn Viết Tiến, thứ trưởng bộ Y tế, giám đốc bệnh viện Phụ sản Trung ương cũng khẳng định: quyết định bỏ thai khi bác sĩ nghi ngờ thai phụ nhiễm rubella trong thời gian nguy hiểm là của gia đình chứ không bắt buộc. Bác sĩ chỉ có nhiệm vụ khám, tư vấn cho người bệnh.
Làm sao để giảm được số ca phá nhầm?
Làm sao để giảm được số ca phá nhầm? Câu hỏi này mới chỉ được giải đáp gần đây khi Nhật Bản viện trợ cho Việt Nam thiết bị chẩn đoán Rubella bằng kỹ thuật sinh học phân tử thông qua chọc ối với độ chính xác trên 95%. Theo đó, dịch ối sẽ được lấy xét nghiệm sau khi bà mẹ bị phát ban 5-7 tuần. Nhờ kỹ thuật này, 50 trường hợp được xét nghiệm gần đây đã cho kết quả khả quan khi tỉ lệ phá thai nhầm giảm rất nhiều lần. TS Tuấn tiếc rẻ: “Giá như kỹ thuật này được áp dụng sớm hơn. Song phần lớn các nước phát triển đã thanh toán được dịch Rubella nên người ta ít quan tâm đến kit xét nghiệm này”.
Theo lý thuyết, 70-100% những bà mẹ mang thai ba tháng đầu nhiễm Rubella sẽ sinh ra con mang hội chứng Rubella. Tuy nhiên, với kỹ thuật chẩn đoán sinh học phân tử thông qua chọc ối cho độ chính xác cao nên các trường hợp hiếm muộn, thụ tinh trong ống nghiệm không may nhiễm Rubella trong ba tháng đầu sẽ được tư vấn giữ thai, chờ kết quả xét nghiệm từ chọc ối. Việc giữ thai chờ xét nghiệm, chỉ bỏ thai khi có kết quả chọc ối xác định đứa trẻ sinh ra nhiễm virut Rubella mới đình chỉ sẽ giúp những cặp vợ chồng hiếm muộn có cơ hội giữ cho mình giọt máu hiếm hoi. Chi phí của xét nghiệm này là 1,5 triệu đồng.
Thanh Lam (tổng hợp)