Chuyện cảm động ở trại phong

(PLO) - Quá nửa đời người, những con người khốn khổ vì không may phải sống liền với hai từ “con hủi”, bị mọi người xa lánh và hắt hủi mới tìm lại được nhựa sống như ngày nào.
Các cụ tăng gia sản xuất để cải thiện cuộc sống.
Các cụ tăng gia sản xuất để cải thiện cuộc sống.
Sống bị người đời xa lánh, chết trong lạnh lẽo, cô đơn
Theo chân đoàn thiện nguyện của các bạn trẻ ở Sóc Sơn (Hà Nội), chúng tôi đến thăm Trại phong Phú Bình (xã Tân Kim, huyện Phú Bình, Thái Nguyên) vào những ngày áp tTết. Con đường vào sâu hun hút, quanh co, khúc khuỷu, đầy những ổ gà gập ghềnh như chính những phận người chìm nổi trong trại phong. Càng vào sâu càng lạnh vì trại phong tách biệt khu dân cư, nằm giữa bạt ngàn cây rừng và đồi núi.
Thấy có người đến thăm, cả trại phong xao động hẳn lên. Tiếng cười nói vang động cả núi rừng. Đẹp nhất là nụ cười của các ông, các bà. Những người bị căn bệnh quái ác “ăn” hết chân cũng dò dẫm chống nạng ra nhìn khách cười.

Ông Phạm Ngọc Hải (79 tuổi), quản lý trại phong suốt 50 năm nay nở nụ cười rất tươi, hiền hậu cho biết: “Ở đây các ông, các bà ấy quý người lắm. Cứ nghe tin có ai hay có đoàn nào đến thăm là thấy phấn khỏi, nét mặt rạng rỡ hẳn ra”. 

Cũng dễ hiểu, vì căn bệnh này đã bắt họ phải sống một cuộc sống quá thiếu thốn về tinh thần. Bị mọi người xa lánh, bị tước đoạt gia đình. Cả tuổi thanh xuân bị chôn vùi ở nơi đất lạ, bị cách ly với cộng đồng xã hội, gần như không được tiếp xúc với người bình thường. Vào thời gian trước, bệnh phong bị xếp là một trong “tứ chứng nan y” khiến ai cũng kinh sợ khi nghe đến căn bệnh ấy. 

Trại phong Phú Bình được thành lập từ năm 1960, thời gian đỉnh điểm trại có gần 400 bệnh nhân. Nhưng từ năm 2000 đến nay, bệnh đã hoàn toàn không còn nữa. Hiện những người còn ở lại là những cụ già tàn tật do di chứng của bệnh để lại. Người bệnh nhẹ nhất cũng bị mất một hoặc cả hai bàn tay. Người nặng thì bị ăn cụt cả hai chân, cụt tay, có người bị mù… Những con người ấy ngày ngày vẫn đang nương tựa vào nhau để sống nốt quãng đời còn lại. 
Trên đồi sau trại phong là một nghĩa trang gồm hơn ba trăm ngôi mộ mới và cũ, là nơi yên nghỉ cuối cùng của những con người bất hạnh. Nhiều ngôi mộ trong số đó không có tên, tuổi, không có quê quán. Và khi họ nằm xuống, không ai trong số họ có một đám ma đúng nghĩa. Những người quản lý trong trại gửi họ về đất trong yên lặng của không gian núi rừng, không có người thân, bạn bè đưa tiễn. Sống bị người đời xa lánh, chết trong lạnh lẽo, cô đơn.

Hiện tại, trại phong còn 83 cụ già, có cụ đã 96 tuổi và đa số các cụ khác cũng đã ở cái tuổi “thất thập cổ lai hi”. Ấy vậy mà trong số ấy, rất ít người còn có gia đình. Hầu hết là người vô gia cư trước khi vào trại. Có người thì bị gia đình bỏ rơi từ khi mắc bệnh. Có người thì trốn quê biệt tích từ ngày bị bệnh. Sau khi hết bệnh, sự tự ti trong lòng họ cũng trở thành bức tường ngăn cản họ trở lại cuộc sống hòa nhập với thế giới bên ngoài.

Vợ chồng ông bà Thích Nhình
 Vợ chồng ông bà Thích Nhình
Mầm sống nảy chồi

Trải qua hơn nửa thế kỷ, trại phong Phú Bình đã chứng kiến biết bao số phận con người hẩm hiu. Có người mắc bệnh từ lúc mười tám, đôi mươi, họ vào trại từ ngày đó và chôn vùi cả tuổi thanh xuân của mình cùng với căn bệnh quái ác. 

Nhưng ngày qua tháng lại, trại phong vốn lạnh lẽo bỗng ấm cúng hơn khi có nhiều cặp vợ chồng kết duyên với nhau trong chính hoàn cảnh ấy. Họ cùng là bệnh nhân được điều trị trong trại. Họ cưu mang, chăm sóc lẫn nhau và rồi nảy sinh tình cảm vốn dĩ của con người . 

“Ban đầu, làm vợ, làm chồng với nhau cũng chỉ là để chăm sóc bệnh tật cho nhau, có người để sẻ chia, tâm sự nỗi lòng. Vì thời đó chưa có thuốc chữa khỏi bệnh nên họ không được sinh con. Nhưng từ ngày có thuốc chữa bệnh triệt để hoàn toàn, sự sống đã thật sự nảy sinh đâm chồi ở nơi ấy” - người quản lý trại phong cho biết. 

Các thành viên thế hệ thứ hai của trại phong lần lượt ra đời trong sự hoan hỉ vui mừng của các gia đình bệnh nhân phong. Thế nhưng khổ nỗi, con cái của bệnh nhân phong vẫn bị kỳ thị, xa lánh và không được nhận vào học trong các ngôi trường gần đấy. 

Họ phải vất vả gửi con mình về quê cho họ hàng để chúng được đi học. Rồi lần lượt những người con ấy cũng trưởng thành, có công ăn việc làm ổn định, có gia đình, vợ con như những người bình thường khác. Giờ đây, những thế hệ thứ ba và thứ tư của trại phong cũng lần lượt ra đời trong sự hạnh phúc của gia đình và sự đón chào của xã hội. 

Gia đình hai cụ Hoàng Văn Nhình, Nông Thị Tích hiện nay vẫn đang sống trong khu vực trại phong kể: “Ban đầu chúng tôi là bệnh nhân cùng vào đây điều trị, sau chăm sóc nhau nhiều nên có tình cảm với nhau, thế là cùng về sống với nhau một nhà cho có ông, có bà chăm nhau”. 

Hiện hai cụ Tích và Nhình cũng có một con trai đã có gia đình và hai cháu. Cuộc sống mặc dù rất vất vả nhưng hai cụ vẫn vui vẻ hưởng tuổi già đoàn viên bên con cháu. Hàng ngày hai cụ vẫn trồng thêm rau và chăn thêm mấy con gà. Khi chúng tôi đến, hai cụ đang nạo và phơi sắn cho gà ăn. Cuộc sống tuy thiếu thốn là vậy nhưng chúng tôi nhìn thấy hạnh phúc yên bình và giản dị của đôi vợ chồng già ấy.

Bệnh phong đã dần lùi xa nhưng trong đôi mắt những người đã từng là bệnh nhân ấy vẫn còn vương vất nỗi buồn ảm đạm về quá khứ, về một quãng đời mình đã trải qua. Được Nhà nước hỗ trợ 450 nghìn đồng mỗi tháng cho toàn bộ chi phí sinh hoạt, cộng với tuổi già sức yếu, mắt mờ chân chậm, mù lòa, tai điếc, lại khiếm khuyết tứ chi, đời sống của các cụ vô cùng vất vả, thiếu thốn. 

Các cụ phải chia nhau mỗi người hai luống đất để trồng thêm rau xanh, tăng gia sản xuất, giảm thiểu chi phí sinh hoạt hàng ngày. Tiền Nhà nước hỗ trợ phải để dành chút ít cho những khi trái nắng trở trời, chân tay đau nhức. Cứ mỗi cụ khỏe hơn lại ở cùng cụ yếu để tiện cho việc tự chăm sóc nhau . 

Bao nhiêu cảm xúc lắng đọng, xúc động dâng trào, thương cảm, xót xa cho những số phận gắn liền với hai từ “con hủi”. Và chắc rằng từ giờ trở đi, xã hội dần sẽ không còn nghe thấy hai từ ấy nữa …

Đọc thêm