Chủ doanh nghiệp bỏ trốn, tỉnh phải ứng tiền cho công nhân

(PLO) - Bảo vệ quyền lợi cho người lao động như thế nào với tình trạng ngày càng nhiều chủ doanh nghiệp bỏ trốn, nợ lương? Thạc sỹ Nguyễn Thế Anh (Trung tâm truyền thông Pháp luật Việt Nam) giải thích về vấn đề này.
Công nhân công ty SMY (Hóc Môn) bao vây công ty ngăn giám đốc tẩu tán hàng hóa và bỏ trốn.
Công nhân công ty SMY (Hóc Môn) bao vây công ty ngăn giám đốc tẩu tán hàng hóa và bỏ trốn.
- Thưa ông, dấu hiệu nào để kết luận doanh nghiệp có chủ doanh nghiệp bỏ trốn? 
Chỉ cần người đại diện doanh nghiệp vắng mặt ở Việt Nam quá 30 ngày mà không có uỷ quyền cho người khác thực hiện các quyền và nhiệm vụ của mình thì doanh nghiệp bị coi là không có người đại diện hợp pháp. Từ đó, doanh nghiệp không có người đại diện hợp pháp trên 30 ngày thì đương nhiên thuộc trường hợp “doanh nghiệp có chủ doanh nghiệp bỏ trốn” theo quy định tại Thông tư liên tịch 06/2009/TTLT-BLĐTBXH-BTC.
- Trách nhiệm giải quyết chính sách đối với người lao động bị mất việc làm tại doanh nghiệp mà chủ doanh nghiệp bỏ trốn thuộc về ai, thưa ông?
Khoản 2 Mục III Thông tư liên tịch 06/2009/TTLT-BLĐTBXH-BTC quy định:           
a) Căn cứ hồ sơ về doanh nghiệp có chủ doanh nghiệp bỏ trốn, căn cứ vào sổ sách kế toán và các tài liệu có liên quan, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp với Sở Tài chính có trách nhiệm xác định người lao động có trong danh sách trả lương của doanh nghiệp, trong đó xác định cụ thể tiền lương còn nợ của từng người lao động.
b) Sở Lao động – Thương binh và Xã hội báo cáo Chủ tịch UBND cấp tỉnh số tiền cần ứng từ ngân sách địa phương để trả nợ lương của người lao động, kèm theo danh sách nợ tiền lương của từng người lao động để Chủ tịch tỉnh quyết định ứng ngân sách địa phương trả trước cho người lao động.
c) Chủ tịch tỉnh giao Sở Lao động – Thương binh và Xã hội nhận tiền tạm ứng từ ngân sách địa phương để tổ chức chi trả nợ lương cho người lao động và báo cáo UBND cấp tỉnh. Giao Sở Kế hoạch – Đầu tư phối hợp với Sở Tài chính thực hiện việc xử lý tài sản của doanh nghiệp để hoàn trả khoản tạm ứng từ ngân sách địa phương.
- Biện pháp xử lý chủ doanh nghiệp bỏ trốn dẫn đến hoạt động của doanh nghiệp bị đình trệ?
Luật Doanh nghiệp đã quy định doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong các trường hợp sau:
- Không hoạt động tại trụ sở đăng ký trong thời hạn sáu tháng liên tục, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc chứng nhận thay đổi trụ sở chính;
- Không báo cáo về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với cơ quan đăng ký kinh doanh trong mười hai tháng liên tục;
- Ngừng hoạt động kinh doanh một năm liên tục mà không thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh;
- Cơ quan đăng ký kinh doanh có yêu cầu yêu cầu doanh nghiệp báo cáo về tình hình kinh doanh của doanh nghiệp khi xét thấy cần thiết cho việc thực hiện các quy định của Luật doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp không thực hiện báo cáo. 
- Quyền lợi của người lao động khi doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh?
Doanh nghiệp bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thì phải giải thể. Khi giải thể, thì các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác của người lao động theo thỏa ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết được ưu tiên thanh toán đầu tiên. Nếu doanh nghiệp không thanh toán thì người đại diện theo pháp luật, các thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, các thành viên Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần, các thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác chưa thanh toán.
- Người lao động khi bị nợ lương có thể nộp đơn yêu cầu Toà án mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp?
Theo quy định của Luật Phá sản 2014, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2015, thì “Người lao động, công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở ở những nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 3 tháng kể từ ngày phải thực hiện nghĩa vụ trả lương, các khoản nợ khác đến hạn đối với người lao động mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán”.  
- Quyền được thanh toán lương của người lao động khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản?
Khoản 1 Điều 53 Luật phá sản 2014 quy định: “Trường hợp Thẩm phán ra quyết định tuyên bố phá sản thì tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã được phân chia theo thứ tự sau:
a) Chi phí phá sản;
b) Khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao động, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể đã ký kết;
c) Khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản nhằm mục đích phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã;
d) Nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước; khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho chủ nợ trong danh sách chủ nợ; khoản nợ có bảo đảm chưa được thanh toán do giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán nợ”.
- Cảm ơn ông về cuộc trò chuyện!