Tranh chấp đầu tư quốc tế - không đùa với đống lửa âm ỉ cháy

(PLVN) - Báo PLVN khởi đăng loạt bài phân tích về nguyên nhân dẫn tới số lượng các vụ tranh chấp đầu tư quốc tế có xu hướng ngày càng gia tăng và phân tích từ các chuyên gia Bộ Tư pháp. 

Lời Tòa soạn: Trước bối cảnh số lượng các vụ tranh chấp đầu tư quốc tế có xu hướng gia tăng và thực tiễn giải quyết tranh chấp thời gian qua còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc nhất định, Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo thống nhất công tác giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế và là Cơ quan đại diện pháp lý cho Chính phủ trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế đã và đang có nhiều giải pháp nhằm phòng ngừa, cảnh báo những tranh chấp có thể phát sinh.

 Kỳ I:

Tranh chấp đầu tư quốc tế có xu hướng ngày càng gia tăng trên thế giới cùng với quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển của đầu tư xuyên biên giới.  Theo số liệu của Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), tính đến hết tháng 7/2019, số lượng các vụ tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà nước trên thế giới là 983 vụ, trong đó số vụ tranh chấp hiện đang được giải quyết tại các thiết chế là 332 vụ. Việt Nam không còn là ngoại lệ trong câu chuyện này.

Việt Nam đã "vào guồng"

Tranh chấp đầu tư quốc tế là tranh chấp phát sinh từ việc nhà đầu tư nước ngoài kiện Chính phủ, Nhà nước hoặc cơ quan nhà nước, tổ chức được cơ quan nhà nước ủy quyền quản lý nhà nước dựa trên cơ sở các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, hiệp định thương mại hoặc điều ước quốc tế khác có quy định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư mà quốc gia đó là thành viên; hoặc các hợp đồng, thỏa thuận giữa Chính phủ hoặc cơ quan nhà nước và nhà đầu tư nước ngoài dưới hình thức PPP, BCC, BOT, BT…. Các chuyên gia cho rằng, tranh chấp đầu tư quốc tế là xu hướng tất yếu trong hội nhập kinh tế quốc tế. Giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế là một vấn đề phức tạp đối với các quốc gia nói chung và đối với Việt Nam nói riêng.

Việt Nam đã và đang ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế trên mọi lĩnh vực với số lượng ngày càng tăng. Trong 10 năm trở lại đây, Việt Nam đã ký kết, tham gia khoảng 2.000 điều ước quốc tế, đặc biệt, đã và đang tích cực đàm phán, ký kết nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA) quan trọng như Hiệp định đối tác toàn diện tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Châu Âu (EVFTA) và Hiệp định bảo hộ đầu tư Việt Nam – Liên minh Châu Âu (EVIPA); Các FTA này, đặc biệt là CPTPP và EVFTA được coi là các FTA thế hệ mới hướng tới thiết lập khuôn khổ pháp lý mới, với các cam kết cao hơn, sâu rộng và tiêu chuẩn khắt khe hơn đối với tự do hóa thương mại so với các cam kết trong khuôn khổ WTO và các Hiệp định thương mại tự do khác mà VN đã là thành viên. Các FTA này nhằm tạo ra môi trường đầu tư, kinh doanh, thương mại, bình đẳng, giảm thiểu sự can thiệp của Chính phủ vào thị trường để doanh nghiệp có thể cạnh tranh hiệu quả. Do đó, các FTA này sẽ đem lại những tác động đáng kể đến khuôn khổ pháp luật về kinh tế, thương mại hiện hành và đặc biệt là việc tổ chức thi hành pháp luật tại Việt Nam trong mối quan hệ với các nước thành viên khác.

Đối với Việt Nam, tranh chấp đầu tư quốc tế là vấn đề còn rất mới
 Đối với Việt Nam, tranh chấp đầu tư quốc tế là vấn đề còn rất mới

Nhiều nguyên nhân phát sinh tranh chấp

Có rất nhiều nguyên nhân có thể dẫn đến tranh chấp đầu tư quốc tế. Thực tiễn giải quyết tranh chấp giữa Nhà nước và nhà đầu tư nước ngoài cho thấy, nguyên nhân phát sinh các tranh chấp nêu trên xuất phát từ cả hai phía.

Thứ nhất, cơ quan nhà nước chưa lường trước được tác hại của các cam kết quá mức trong quá trình quảng bá, xúc tiến đầu tư. Có trường hợp, các cơ quan tiến hành hoạt động quảng bá, xúc tiến đầu tư với việc đưa ra nhiều cam kết, ưu đãi hấp dẫn dẫn đến việc nhà đầu tư căn cứ vào đó để đưa ra quyết định đầu tư. Tuy nhiên, khi nhà đầu tư bắt đầu đi vào thực hiện hoạt động đầu tư thì các cơ quan nhà nước liên quan lại không thể giành cho nhà đầu tư các ưu đại như đã cam kết, dẫn đến nhà đầu tư kiện Chính phủ ra trọng tài quốc tế cáo buộc vi phạm nguyên tắc bảo hộ công bằng và thỏa đáng vì không bảo đảm được mong đợi chính đáng của nhà đầu tư. 

Thứ hai, việc áp dụng pháp luật không thống nhất, nhất quán dẫn đến nhà đầu tư khởi kiện Chính phủ vi phạm nguyên tắc đối xử quốc gia hoặc đối xử tối huệ quốc. Trong nhiều trường hợp, cơ quan nhà nước, đặc biệt là ở địa phương ký các thỏa thuận, hợp đồng đầu tư chưa chặt chẽ về pháp lý, dẫn đến nhà đầu tư có thể lợi dụng để trục lợi hoặc đe dọa kiện cơ quan đó hoặc Chính phủ.

Thứ ba, công tác giải quyết khiếu nại của nhà đầu tư chưa đúng trình tự, thủ tục, chưa tạo điều kiện để nhà đầu tư được trình bày về khiếu nại của mình dẫn đến nhà đầu tư khởi kiện Chính phủ.

Thứ tư, một số địa phương chưa thực hiện tốt công tác sàng lọc nhà đầu tư về năng lực, thực tiễn tiến hành đầu tư ở các nước dẫn đến việc cấp phép cho nhiều nhà đầu tư không thiện chí hoặc các nhà đầu tư có lý lịch đầu tư không lành mạnh, đã có vi phạm pháp luật ở các nước khác dẫn đến việc có các hành vi vi phạm trong quá trình đầu tư và sau khi bị xử lý lại quay ra kiện Chính phủ.

Mặc dù không mong muốn, nhưng khi nhà đầu tư khởi kiện, Chính phủ buộc phải tham gia vào các vụ tranh chấp đầu tư quốc tế để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam
 Mặc dù không mong muốn, nhưng khi nhà đầu tư khởi kiện, Chính phủ buộc phải tham gia vào các vụ tranh chấp đầu tư quốc tế để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam

Đối với Việt Nam, đây là vấn đề còn rất mới. Bản thân Chính phủ Việt Nam không muốn xảy ra các tranh chấp, và luôn nỗ lực để phòng ngừa các vụ kiện. Tuy nhiên, cùng với quá trình hội nhập quốc tế, việc ký kết các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư (tính đến này là 66 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư) và hiệp định thương mại tự do một mặt thể hiện cam kết của Chính phủ trong việc bảo hộ đầu tư nước ngoài, góp phần nâng cao tính hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt Nam, nhưng đồng thời cũng tạo cơ hội cho nhà đầu tư nước ngoài khởi kiện Chính phủ khi cho rằng Chính phủ hoặc cơ quan nhà nước vi phạm cam kết bảo hộ đầu tư.

Mặc dù không mong muốn, nhưng khi nhà đầu tư khởi kiện, Chính phủ buộc phải tham gia vào các vụ tranh chấp đầu tư quốc tế để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam. Nếu Việt Nam không tham gia Vụ kiện có nghĩa Việt Nam đã từ bỏ quyền tự bảo vệ của mình và Hội đồng Trọng tài sẽ vẫn được thành lập và ra phán quyết về Vụ kiện căn cứ theo yêu cầu và chứng cứ do các Nguyên đơn cung cấp. Trong trường hợp như vậy, kết quả Vụ kiện bất lợi cho Việt Nam là có thể dự đoán trước được.

Đón đọc kỳ tới: Vụ trưởng Vụ Pháp luật Quốc tế, Bộ Tư pháp Bạch Quốc An nói về lý do cần tham gia vụ kiện tranh chấp đầu tư quốc tế

Đọc thêm