Thông tin nào thuộc diện "mật" theo quy định của Luật?

(PLO) - Sáng qua (6/4), 88,46% đại biểu Quốc hội đã tán thành thông qua Luật Tiếp cận thông tin gồm 5 chương 37 điều, có hiệu lực kể từ ngày 1/7/2018.
Thông tin nào thuộc diện "mật" theo quy định của Luật?

Không được tiếp cận thông tin nội bộ cơ quan

Luật Tiếp cận thông tin (TCTT) quy định các loại thông tin công dân không được tiếp cận gồm thông tin thuộc bí mật nhà nước, bao gồm những thông tin có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ, các lĩnh vực khác theo quy định của luật. Khi thông tin thuộc bí mật nhà nước được giải mật thì công dân được tiếp cận theo quy định của Luật này.

Đồng thời, thông tin mà nếu để tiếp cận sẽ gây nguy hại đến lợi ích của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến quốc phòng, an ninh quốc gia, quan hệ quốc tế, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng, gây nguy hại đến tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người khác; thông tin thuộc bí mật công tác; thông tin về các cuộc họp nội bộ của cơ quan; các tài liệu do cơ quan soạn thảo cho công việc nội bộ cũng thuộc danh mục các thông tin mà công dân không được tiếp cận.

Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) nhấn mạnh, những thông tin này được quy định là thông tin mật và chỉ một số ít đối tượng được tiếp cận với tư cách là người thi hành công vụ chứ không phải là tư cách công dân. Việc tiếp cận, sử dụng và quản lý tin mật được quy định trong các văn bản pháp luật khác theo quy trình, thủ tục rất chặt chẽ.

Được từ chối cung cấp thông tin vượt quá khả năng

Để bảo đảm tính khả thi của Luật, tính chính xác của thông tin được cung cấp cũng như phù hợp với điều kiện thực tiễn, bảo đảm hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước và không tạo kẽ hở cho việc lạm dụng yêu cầu cung cấp thông tin, Luật quy định cơ quan nhà nước có trách nhiệm (bắt buộc) cung cấp thông tin do mình tạo ra. Bên cạnh đó, khuyến khích cơ quan nhà nước tùy theo điều kiện, khả năng thực tế của mình có thể cung cấp thông tin khác do cơ quan mình tạo ra và nắm giữ trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn để tạo điều kiện thuận lợi cho công dân.

Theo Luật TCTT chỉ có 2 hình thức cung cấp thông tin theo yêu cầu là trực tiếp tại trụ sở cơ quan cung cấp thông tin và qua mạng điện tử, dịch vụ bưu chính, fax. Việc cung cấp thông tin qua điện thoại không được quy định vì theo UBTVQH, tại khoản 1 Điều 2 Luật này quy định “thông tin là tin, dữ liệu được chứa đựng trong văn bản, hồ sơ, tài liệu” nên việc cung cấp qua hình thức điện thoại rất dễ bị sai lệch thông tin và không bảo đảm tính pháp lý, có thể dẫn đến phát sinh khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực này.

Cũng theo UBTVQH, Luật không thể quy định việc định lượng mức độ, trường hợp cụ thể nào có thể vượt quá khả năng đáp ứng của cơ quan. Do đó, trong trường hợp “thông tin được yêu cầu vượt quá khả năng đáp ứng của cơ quan hoặc làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của mình” (điểm đ khoản 1 Điều 28 Luật CCTT) thì cơ quan nhà nước được từ chối cung cấp thông tin.

Theo Luật này, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước là “duy trì, lưu giữ, cập nhật cơ sở dữ liệu thông tin có trách nhiệm cung cấp, bảo đảm thông tin có hệ thống, đầy đủ, toàn diện, kịp thời, dễ dàng tra cứu” để thông tin không bị lạc hậu ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của công dân.

Đọc thêm