Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới sâu sắc và toàn diện, phát huy cao độ sức mạnh trí tuệ, tinh thần và vật chất, vượt qua thách thức đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững (*)

(Báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng NGUYỄN TẤN DŨNG trình bày tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XII)

(Báo cáo của Chính phủ do Thủ tướng NGUYỄN TẤN DŨNG trình bày tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XII)

Thưa các đồng chí lãnh đạo Ðảng,
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Thưa các đồng chí lão thành cách mạng và các vị khách,
Thưa đồng bào, đồng chí,

Theo Chương trình Kỳ họp, Chính phủ đã gửi đến các vị đại biểu Quốc hội Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2010 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011; Báo cáo kết quả thực hiện ngân sách nhà nước năm 2010, dự toán ngân sách nhà nước năm 2011 cùng với 17 báo cáo chuyên đề khác. Hôm nay, thay mặt Chính phủ, tôi xin báo cáo với Quốc hội và đồng bào cả nước một số vấn đề lớn về tình hình kinh tế, xã hội năm 2010; mục tiêu, nhiệm vụ và những giải pháp chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011.

Phần thứ nhất

ÐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH KINH TẾ, XÃ HỘI NĂM 2010

Ðất nước ta thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010 trong bối cảnh kinh tế thế giới vừa ra khỏi giai đoạn khó khăn nhất của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái, bước đầu phục hồi nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều khó khăn, thách thức. Trên cơ sở phân tích tình hình trong nước và quốc tế, ngay từ cuối năm 2009, tại Kỳ họp thứ 6 của Quốc hội, Chính phủ đã trình và được Quốc hội thông qua kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội  năm 2010 với mục tiêu tổng quát là nỗ lực phấn đấu phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao hơn năm 2009, tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao chất lượng tăng trưởng; ngăn chặn lạm phát cao trở lại; tăng khả năng bảo đảm an sinh xã hội; chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; bảo đảm yêu cầu quốc phòng, an ninh; phấn đấu đạt mức cao nhất các chỉ tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010.


Ðể thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 03 ngày 15-1-2010 với tám nhóm nhiệm vụ, giải pháp. Nhưng từ những tháng đầu năm, giá cả thị trường trong nước có xu hướng tăng cao, thâm hụt thương mại lớn, thanh khoản của nhiều ngân hàng khó khăn, lãi suất tín dụng cao, các doanh nghiệp rất khó tiếp cận nguồn vốn, sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn..., Chính phủ đã phân tích tình hình các mặt và đã ban hành Nghị quyết số 18 ngày 6-4-2010 với nhiều giải pháp cụ thể nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% trong năm 2010.

Trên cơ sở tình hình chín tháng đầu năm và dự báo mức thực hiện trong các tháng cuối năm, Chính phủ đánh giá tình hình kinh tế, xã hội năm 2010 trên các nội dung chủ yếu như sau:

1. Ðã ngăn chặn được suy giảm, kinh tế phục hồi và tăng trưởng khá cao

Mặc dù sau khủng hoảng, kinh tế toàn cầu phục hồi chậm, nhưng kinh tế nước ta đã sớm ra khỏi tình trạng suy giảm và có mức tăng trưởng khá cao. GDP cả năm 2010 tăng khoảng 6,7%, cao hơn chỉ tiêu Quốc hội đề ra (1). Khu vực nông nghiệp tăng 2,6%, công nghiệp và xây dựng tăng 7,6%, dịch vụ tăng 7,5%. Với kết quả này, tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 5 năm 2006 - 2010 đạt khoảng 7%/năm. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt khoảng 1.160 USD.

Vốn đầu tư phát triển năm 2010 ước tăng 12,9% so với năm 2009 và bằng khoảng 41% GDP (2). Kết quả giải ngân vốn Nhà nước khá cao và có tiến bộ trong điều hành, đến hết tháng 9, đạt khoảng 70% và dự kiến cả năm sẽ đạt kế hoạch; nhờ đó sớm hoàn thành nhiều công trình kết cấu hạ tầng và tạo thêm cơ sở sản xuất mới, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phục hồi tăng trưởng.

Năm 2010, có khoảng 85 nghìn doanh nghiệp dân doanh thành lập mới với số vốn đăng ký khoảng 500 nghìn tỷ đồng; bình quân đạt gần 6 tỷ đồng/doanh nghiệp, tăng 125% so với năm 2009, góp phần quan trọng phát triển sản xuất kinh doanh và tạo thêm nhiều việc làm mới.

2. Kinh tế vĩ mô có bước cải thiện, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm

Trong khi sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn, cán cân thương mại thâm hụt lớn, bội chi ngân sách năm trước ở mức cao nhất trong những năm gần đây và những tác động phụ của gói kích thích kinh tế năm 2009,  việc bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô là một thách thức lớn, nhưng nhờ những biện pháp điều hành linh hoạt, phù hợp nên tình hình đã có bước cải thiện.

Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2010 dự kiến vượt 12,7% so với dự toán và tăng 17,6% so với năm 2009, bảo đảm được các nhiệm vụ chi và góp phần giảm bội chi xuống dưới 6%, thấp hơn kế hoạch đề ra (6,2%). Ðến hết năm 2010, dư nợ Chính phủ tương đương khoảng 44,5% GDP, dư nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 42,2% GDP và dư nợ công bằng 56,7% GDP, nằm trong giới hạn an toàn.

Chính sách tiền tệ đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng và kiểm soát lạm phát, cơ bản bảo đảm được các mục tiêu đã đề ra từ đầu năm: tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 20%, dư nợ tín dụng tăng khoảng 25%. Tỷ giá được điều hành linh hoạt hơn theo nguyên tắc thị trường; thực hiện điều hành lãi suất cho vay theo cơ chế thỏa thuận và theo hướng giảm dần; tăng cường  giám sát bảo đảm an toàn hoạt động của các tổ chức tín dụng; kiểm soát nợ xấu dưới 3%. Tính đến hết tháng 9-2010, thị trường chứng khoán đạt mức vốn hóa khoảng 31,6% GDP.

Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2010 ước tăng 19,1%, gấp hơn 3 lần so với kế hoạch. Nhập khẩu được kiểm soát chặt chẽ hơn, tổng kim ngạch nhập khẩu ước tăng 16,5%. Nhập siêu cả năm khoảng 13,5 tỷ USD, dưới 20% tổng kim ngạch xuất khẩu, thấp hơn tỷ lệ nhập siêu năm 2009 và đạt chỉ tiêu đề ra.

Sản xuất kinh doanh phát triển, cân đối cung cầu được bảo đảm, cùng với các biện pháp tăng cường kiểm soát giá và chống đầu cơ, thị trường giá cả đã dần ổn định. Mức tăng giá tiêu dùng 9 tháng là 6,46% (3), dự báo cả năm giá tiêu dùng tăng khoảng 8%, tuy chưa đạt mục tiêu Quốc hội đề ra (không quá 7%) nhưng trong bối cảnh kinh tế diễn biến phức tạp, đây là một cố gắng lớn, góp phần giữ ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng và giải quyết việc làm.

3. Bảo đảm tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn

Trong điều kiện phải giảm bội chi ngân sách, nhưng các lĩnh vực văn hóa và xã hội vẫn được quan tâm chăm lo tốt hơn, góp phần thiết thực vào ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Thu nhập bình quân đầu người một tháng đạt 1 triệu 365 nghìn đồng, tăng 8,9% (đã loại trừ yếu tố tăng giá).

Cả năm tạo được khoảng 1,6 triệu việc làm mới; đã đào tạo nghề cho hơn 1,7 triệu người. Chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn được tích cực triển khai, riêng đào tạo nghề cho nông dân là 430 nghìn người. Dự kiến đến cuối năm 2010, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 40%.

Công tác giảm nghèo, nhất là ở 63 huyện nghèo nhất, được triển khai đồng bộ với các giải pháp trợ giúp thiết thực cả về sản xuất và đời sống. Tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,85%, xuống còn 9,5% (4). Chương trình xây dựng nông thôn mới đang được triển khai tích cực. Chính sách trợ giúp người có công và bảo trợ xã hội tiếp tục được hoàn thiện, đã mở rộng đối tượng thụ hưởng và nâng mức trợ cấp. Nhà nước dành hơn 19 nghìn tỷ đồng (tăng 17% so với năm 2009) để thực hiện chính sách cho hơn 1,4 triệu người có công với cách mạng; dành 4.500 tỷ đồng (gấp hơn hai lần năm 2009) để thực hiện trợ cấp thường xuyên cho hơn 1,6 triệu người và dành hàng nghìn tỷ đồng, hàng chục nghìn tấn gạo để trợ cấp đột xuất, chủ yếu cho khắc phục thiên tai và cứu đói giáp hạt (5).

Các chính sách phát triển nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp tập trung, người có thu nhập thấp khu vực đô thị, nhà ở cho người nghèo ở nông thôn, ký túc xá cho học sinh, sinh viên được khẩn trương triển khai và đạt kết quả tích cực (6). Dư nợ cho vay ưu đãi để thực hiện các chính sách xã hội là 91 nghìn tỷ đồng, tăng 25% so với năm 2009, riêng dư nợ tín dụng  cho 1,9 triệu học sinh, sinh viên là 29 nghìn tỷ đồng, tăng 60%. Tiếp tục thực hiện lộ trình cải cách tiền lương, đã điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu chung thực hiện từ ngày 1-5-2010 và một số chính sách liên quan.

Hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tiếp tục phát triển. Số người tham gia bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế đều tăng (7), góp phần tích cực vào giảm thiểu thiệt hại và khó khăn cho người tham gia khi gặp rủi ro.

Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân, dân số, kế hoạch hóa gia đình, bảo vệ và chăm sóc trẻ em, bình đẳng giới đã được quan tâm hơn, nhiều mặt đạt được kết quả tích cực, đã cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu Quốc hội giao. Một số bệnh dịch mới, nguy hiểm đã được khống chế và đẩy lùi. Hệ thống cơ sở y tế tiếp tục được củng cố và phát triển. Việc thực hiện các đề án xây dựng, cải tạo, nâng cấp hệ thống các bệnh viện, luân chuyển cán bộ y tế và đẩy mạnh xã hội hóa đã góp phần nâng cao năng lực và chất lượng khám, chữa bệnh, nhất là ở tuyến tỉnh và tuyến huyện (8). Có khoảng 80% số xã đạt chuẩn y tế (năm 2009 là 65,36%). Nhiều kỹ thuật khám, chữa bệnh bằng công nghệ cao được nghiên cứu, ứng dụng thành công ở nhiều bệnh viện. Ðã hình thành mạng lưới kiểm nghiệm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm quốc gia.

Giáo dục và đào tạo có bước phát triển. Tích cực triển khai thực hiện đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, cơ chế tài chính, phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý và đổi mới phương pháp giảng dạy. Cùng với việc tăng đầu tư của Nhà nước, đã đẩy mạnh xã hội hóa để nâng cấp cơ sở vật chất, phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục - đào tạo từ mầm non đến đại học (9). Ðã kết nối in-tơ-nét cho tất cả các trường phổ thông. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia bậc mầm non và các cấp học phổ thông tăng nhanh, 100% số tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở; tỷ lệ học sinh bỏ học ở phần lớn các vùng đều giảm (10), kỷ cương trong thi cử đã được thực hiện tốt hơn. Kiểm soát chặt chẽ hơn việc thành lập mới các trường đại học. Ðẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu xã hội và tích cực triển khai hợp tác đào tạo theo chương trình tiên tiến với các trường đại học nước ngoài.

Văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao có bước phát triển. Thông tin báo chí đã góp phần quan trọng vào việc phổ biến, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước; kịp thời phản ánh ý kiến nhân dân về các vấn đề của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Các hoạt động sáng tạo văn học nghệ thuật có bước phát triển mới, làm tăng tính đa dạng của sản phẩm văn hóa, góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần của nhân dân. Công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa được quan tâm thực hiện. Năm 2010 nước ta đã có thêm hai di sản văn hóa được công nhận là di sản thế giới (11). Phong trào thể dục, thể thao quần chúng và thể thao thành tích cao tiếp tục được đẩy mạnh với nhiều hình thức phong phú. Ðại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội được tổ chức trọng thể, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần giáo dục lòng yêu nước, truyền thống tốt đẹp, nâng cao niềm tự hào của nhân dân cả nước về Thủ đô Anh hùng nghìn năm văn hiến.

4. Khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường đạt được những kết quả tích cực

Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ công lập bước đầu đã phát huy hiệu quả. Các doanh nghiệp khoa học công nghệ và cơ sở nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ được khuyến khích phát triển. Năm 2010 có hơn 300 doanh nghiệp khoa học công nghệ được thành lập mới, gấp hai lần năm 2009. Thị trường công nghệ có bước phát triển, giá trị các giao dịch, mua bán công nghệ tăng so với năm trước. Số lượng sáng chế của người Việt Nam được đăng ký bảo hộ tăng gấp hai lần, trong đó số bằng bảo hộ được cấp tăng 15%; các nhà khoa học Việt Nam đã tạo được hơn 30 giống cây trồng mới có năng suất, chất lượng cao.

Công tác quản lý tài nguyên, khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường đã được chú ý chấn chỉnh một bước. Hệ thống pháp luật về tài nguyên khoáng sản tiếp tục được hoàn thiện. Công tác thanh tra, kiểm tra việc cấp phép và chấp hành pháp luật về khai thác khoáng sản được tăng cường. Ðã xây dựng và triển khai chiến lược khai thác, sử dụng khoáng sản nhằm bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường. Công tác quản lý tài nguyên đất, tài nguyên nước được quan tâm hơn. Ðến nay, đã cơ bản hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đang khẩn trương tổng kết việc thi hành luật đất đai để tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện.

Công tác bảo vệ môi trường được coi trọng và tập trung chỉ đạo đồng bộ cả về xây dựng thể chế, chính sách; thực hiện các giải pháp phòng ngừa ô nhiễm; tăng cường kiểm tra, thanh tra và xử lý các vi phạm. Ðã xử lý hàng trăm cơ sở vi phạm pháp luật về môi trường, trong đó, có nhiều vụ vi phạm nghiêm trọng. Công tác đánh giá tác động môi trường và giải pháp ngăn ngừa ô nhiễm ở các dự án đầu tư mới được kiểm soát chặt chẽ hơn. Xử lý chất thải rắn đô thị, chất thải rắn y tế được đẩy mạnh. Việc bảo đảm nước sinh hoạt cho nhân dân được quan tâm, đến nay đã có 83% dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh, 76% dân số đô thị được sử dụng nước sạch. Trồng và bảo vệ rừng có tiến bộ, đến cuối năm 2010, độ che phủ rừng đạt 39,5%. Chương trình mục tiêu và kế hoạch hành động quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu đang được tích cực triển khai.

5. Cải cách hành chính, phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm được quan tâm chỉ đạo và đạt những kết quả thiết thực

Cải cách hành chính tiếp tục được coi là một khâu đột phá với các nội dung là hoàn thiện thể chế, kiện toàn tổ chức bộ máy và cải cách thủ tục hành chính. Chính phủ đã trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội 16 dự án luật, pháp lệnh theo đúng tiến độ, đồng thời đẩy nhanh việc ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành. Ðề án 30 về đơn giản hóa thủ tục hành chính được triển khai đồng bộ; đã công bố Bộ cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính (12), đồng thời chuẩn hóa và thống nhất thủ tục hành chính tại các cấp chính quyền; đang thực hiện đơn giản hóa 258 thủ tục thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ, ngành, tập trung vào các lĩnh vực như đất đai, nhà ở, xây dựng, thuế, hải quan. Kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới các thủ tục hành chính theo nguyên tắc tăng tính công khai, minh bạch và giảm phiền hà nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý tốt hơn và tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Cơ chế một cửa, một cửa liên thông, việc ứng dụng công nghệ thông tin... đã phát huy hiệu quả thiết thực. Công tác kiểm tra, xử lý và theo dõi thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật được đẩy mạnh (13). Mô hình tổ chức của Bộ đa ngành, đa lĩnh vực tiếp tục được hoàn thiện. Việc thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân ở huyện, quận, phường được triển khai nghiêm túc, chặt chẽ.

Công tác phòng, chống tham nhũng có những tiến bộ cả trong xây dựng thể chế, kiện toàn bộ máy chỉ đạo, thực hiện các giải pháp phòng ngừa và kiểm tra, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử (14). Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng. Các Bộ, ngành, địa phương đã ban hành và triển khai Kế hoạch thực hiện Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng. Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh kết hợp với việc tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng và thực hiện các cuộc đối thoại đã góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về hoạt động phòng, chống tham nhũng.

Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được chỉ đạo tập trung vào các lĩnh vực như chi ngân sách, đầu tư xây dựng, quản lý tài sản công, đất đai, tài nguyên. Việc thực hiện cơ chế khoán chi hành chính, cơ chế tự chủ về tài chính, ứng dụng công nghệ thông tin, cải cách thủ tục, họp trực tuyến... đã tiết kiệm đáng kể cho ngân sách và các nguồn lực của xã hội (15).

6. Chính trị xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm, công tác đối ngoại đạt kết quả quan trọng, vị thế quốc tế của Việt Nam tiếp tục được nâng lên

Ðã từng bước nâng cao chất lượng, tăng cường tiềm lực cho quân đội, công an, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh quốc gia. Các lực lượng chức năng đã chủ động nắm chắc tình hình, phát hiện và đấu tranh làm thất bại nhiều âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Các sự kiện lớn về chính trị, kinh tế, xã hội, ngoại giao của đất nước được bảo vệ an toàn. Công tác phòng ngừa và đấu tranh, trấn áp tội phạm được triển khai thực hiện có hiệu quả. Công tác đặc xá cho các phạm nhân được thực hiện tốt, nhất là trong khâu chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng.

Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân được quan tâm chỉ đạo. Việc phối hợp giữa các cấp, các ngành chức năng và tăng cường đối thoại giữa cơ quan hành chính với người khiếu nại, tố cáo đã góp phần xử lý dứt điểm nhiều vụ việc, trong đó có những vụ việc phức tạp, tồn đọng kéo dài.

Công tác đối ngoại được triển khai đồng bộ, toàn diện, cả ngoại giao chính trị, kinh tế và văn hóa; kết hợp đối ngoại của Ðảng với ngoại giao của Nhà nước và ngoại giao nhân dân. Hoạt động đối ngoại của Lãnh đạo cấp cao của Ðảng và Nhà nước đã thúc đẩy nâng cấp quan hệ với nhiều đối tác, tạo điều kiện mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt, cùng có lợi, tạo dựng vị thế mới của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Những kết quả nổi bật của các Hội nghị Cấp cao ASEAN 16, Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị các Bộ trưởng ASEAN về các trụ cột kinh tế, văn hóa và xã hội... mà Việt Nam trên cương vị Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch AIPA và là nước chủ nhà Diễn đàn kinh tế Ðông Á, được dư luận quốc tế và trong nước đánh giá cao. Công tác hội nhập quốc tế được triển khai tích cực và chủ động với những kết quả thiết thực. Công tác người Việt Nam ở nước ngoài tiếp tục được quan tâm. Những kết quả này đã góp phần nâng cao uy tín và vị thế quốc tế của Việt Nam, tạo thêm điều kiện thuận lợi và nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, tình hình kinh tế, xã hội nước ta trong năm qua còn những hạn chế, yếu kém:

1. Năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm. Hiệu quả đầu tư còn thấp, đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn chưa tương xứng. Công nghiệp hỗ trợ kém phát triển, giá trị gia tăng của sản phẩm thấp. Phát triển nguồn điện chưa đáp ứng kịp yêu cầu. Khu vực doanh nghiệp nhà nước giữ một phần lớn vốn, tài sản, đất đai, tài nguyên quốc gia nhưng hiệu quả đầu tư và tăng trưởng chưa tương xứng; cổ phần hóa và đổi mới doanh nghiệp nhà nước còn chậm; quản lý nhà nước và thực hiện quyền chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước còn nhiều bất cập.

2. Thể chế kinh tế thị trường chưa đồng bộ; bao cấp qua giá điện, giá than còn kéo dài, không khuyến khích tiết kiệm năng lượng và hạn chế việc huy động vốn đầu tư của các thành phần kinh tế vào phát triển nguồn điện. Quản lý giá một số mặt hàng nhất là giá sữa, giá thuốc chữa bệnh chưa tốt. Các cân đối vĩ mô chưa vững chắc; điều tiết qua thuế còn cao, thất thu còn nhiều, chi ngân sách còn lãng phí, bội chi còn lớn, nhập siêu còn cao, cán cân thanh toán tổng thể vẫn còn thâm hụt, dự trữ ngoại tệ giảm, lãi suất cho vay còn cao. Sự phối hợp giữa chính sách tài chính và chính sách tiền tệ còn chưa đồng bộ. Việc xử lý mối quan hệ giữa ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng chưa thật hợp lý, tốc độ tăng trưởng tuy đạt khá cao nhưng lại làm nảy sinh những khó khăn mới cho ổn định kinh tế vĩ mô.

3. Kết quả giảm nghèo chưa bền vững, tỷ lệ hộ cận nghèo và tái nghèo còn cao. Chưa tạo được chuyển biến mạnh trong giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng lao động. Chế độ tiền lương chưa hợp lý, nhất là khu vực hành chính công. Công tác khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân vẫn còn không ít khó khăn, yếu kém; quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm chưa tốt.

Việc xây dựng đời sống, lối sống văn hóa chưa tạo được nhiều chuyển biến trong việc bồi dưỡng, phát huy các nhân tố tích cực, đẩy lùi tiêu cực. Các hoạt động lễ hội chưa được quản lý tốt; nhiều hoạt động còn tự phát, thiếu chọn lọc, phô trương hình thức, lãng phí. Tệ nạn xã hội ở một số nơi còn diễn biến phức tạp; kết quả kiềm chế lây nhiễm HIV chưa vững chắc, vẫn tiềm ẩn nguy cơ bùng phát cao. Tai nạn và ùn tắc giao thông vẫn còn là vấn đề bức xúc.

4. Quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo vẫn còn bất cập. Chất lượng giáo dục đào tạo không đồng đều, chậm được cải thiện; nội dung và chương trình đào tạo nghề nghiệp, phương pháp dạy và học chậm được đổi mới. Phát triển giáo dục đào tạo ở các vùng khó khăn còn nhiều hạn chế, tỷ lệ thu hút học sinh ở bậc trung học phổ thông, tỷ lệ học sinh vào đại học, cao đẳng đạt thấp, tỷ lệ học sinh yếu kém còn cao. Tình trạng vi phạm đạo đức trong nhà trường còn diễn ra ở nhiều nơi, gây bức xúc trong xã hội.

5. Công tác nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ vẫn chưa tạo được kết quả mang tính đột phá góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước trong lĩnh vực này còn thấp, chưa có cơ chế phù hợp để huy động mạnh mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển khoa học và đổi mới công nghệ.

Công tác bảo vệ môi trường, quản lý tài nguyên khoáng sản còn nhiều yếu kém, hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước còn thấp; ý thức về bảo vệ môi trường trong xã hội chưa cao, nguồn lực cho bảo vệ môi trường chưa đáp ứng được yêu cầu. Một số chỉ tiêu trong lĩnh vực môi trường chưa đạt kế hoạch đề ra.

6. Thể chế, chính sách còn thiếu đồng bộ, vừa làm hạn chế hiệu quả quản lý, vừa dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm. Việc phân cấp mạnh quản lý nhà nước trong khi chưa có quy hoạch phù hợp, thiếu kiểm tra, giám sát nên thực hiện còn tùy tiện, dẫn đến tình trạng đầu tư trùng lặp, phân tán, hiệu quả thấp, lãng phí nguồn lực. Công tác thanh tra, kiểm tra còn chồng chéo, chất lượng thấp. Một bộ phận cán bộ, công chức yếu kém về năng lực, phẩm chất, lạm dụng quyền hạn, vi phạm pháp luật. Kết quả phòng, chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm còn hạn chế.

Tình hình trên đây có nguyên nhân khách quan nhưng những khuyết điểm chủ quan trong quản lý điều hành ở các cấp, các ngành là nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp, cần sớm được khắc phục.

Nhìn tổng quát, nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng và quản lý có hiệu quả của Nhà nước, sự chỉ đạo điều hành quyết liệt của Chính phủ và chính quyền các cấp cùng với sự đồng thuận và nỗ lực phấn đấu của cả hệ thống chính trị, của cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước, chúng ta đã đạt được những thành tựu khá toàn diện, cơ bản hoàn thành mục tiêu tổng quát và các chỉ tiêu đề ra cho năm 2010. Nền kinh tế phục hồi và tăng trưởng khá cao. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định. Các lĩnh vực văn hóa xã hội có tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Chính trị xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt được nhiều kết quả quan trọng. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng cao.
 
Những kết quả trên đây đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thành cơ bản các mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010, tạo điều kiện thuận lợi để đất nước phát triển cao hơn trong giai đoạn tiếp theo (16). Chính phủ cũng nghiêm túc nhìn nhận rằng, việc khắc phục những khuyết điểm, yếu kém, tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao chất lượng tăng trưởng và giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững vẫn là những thách thức lớn, đòi hỏi sự nỗ lực vượt bậc và quyết tâm cao của toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị trong năm 2011 và những năm tiếp theo.

Phần thứ hai

MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ, XÃ HỘI NĂM 2011

Theo nhiều dự báo, năm 2011, kinh tế thế giới tuy tiếp tục xu hướng phục hồi nhưng chưa vững chắc và còn nhiều khó khăn. Các nền kinh tế là thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản tăng trưởng chậm. Cuộc khủng hoảng nợ công của khu vực đồng Euro và thâm hụt ngân sách cao ở nhiều nước có thể gây biến động về tỷ giá giữa các đồng tiền, làm cho tính bất định và độ rủi ro tăng lên, tác động mạnh tới xuất nhập khẩu, đầu tư, chính sách tài khóa và tiền tệ của các quốc gia. Trong khi đó, giá cả nguyên liệu đầu vào có xu hướng tăng, gây áp lực lên mặt bằng giá trong nước. Sự mạnh lên của nền kinh tế và sức cạnh tranh của hàng hóa Trung Quốc trong điều kiện hội nhập Ðông Á và việc thực hiện các hiệp định mậu dịch tự do ASEAN và ASEAN+ ngày càng sâu rộng, tạo ra cơ hội nhưng cũng đặt ra những thách thức rất lớn đối với nền kinh tế nước ta. Nếu không tạo dựng được các yếu tố nội sinh bền vững để tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức thì thách thức sẽ lấn át, ảnh hưởng xấu đến ổn định vĩ mô và tăng trưởng. Trong khi đó, vẫn đang tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định chính trị và đe dọa chủ quyền quốc gia.

Ở trong nước, nền kinh tế phục hồi khá nhanh và lấy lại đà tăng trưởng sau ảnh hưởng của khủng hoảng; chính trị xã hội ổn định, môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện, Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài. Ðầu năm 2011, Ðại hội lần thứ XI của Ðảng sẽ thông qua các văn kiện quan trọng xác định những quan điểm, mục tiêu và những định hướng lớn để phát triển đất nước trong giai đoạn mới. Ðây là những thuận lợi cơ bản. Tuy nhiên, vẫn còn những yếu tố gây lạm phát cao và bất ổn  định kinh tế vĩ mô. Những hạn chế của hệ thống thể chế, cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực vẫn là những cản trở lớn. Thiên tai, dịch bệnh và biến đổi khí hậu có thể tác động xấu đến sự phát triển, nhất là sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân.

I. MỤC TIÊU TỔNG QUÁT VÀ CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU

1. Mục tiêu tổng quát

Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát; trên cơ sở đó, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn năm 2010 gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống nhân dân; tăng cường ổn định chính trị xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế.

2. Các chỉ tiêu chủ yếu

Các chỉ tiêu kinh tế
- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 7 - 7,5% so với năm 2010; GDP bình quân đầu người khoảng 1.300 USD.
- Tổng kim ngạch xuất khẩu là 74,8 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2010. Giảm nhập siêu xuống dưới 20%.
- Tổng thu ngân sách nhà nước 590,5 nghìn tỷ đồng; Tổng chi ngân sách nhà nước 725,6 nghìn tỷ đồng. Bội chi ngân sách nhà nước so với GDP 5,5%.
- Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bằng khoảng 40% GDP.
- Tăng giá tiêu dùng khoảng 7%.
Các chỉ tiêu xã hội
- Tuyển mới đại học, cao đẳng tăng 6,5%; trung cấp chuyên nghiệp tăng 10%; cao đẳng nghề và trung cấp nghề tăng 16,5%.
- Mức giảm tỷ lệ sinh là 0,2%o.
- Tạo việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động, trong đó đưa 87 nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài.
- Giảm tỷ lệ hộ nghèo 2% theo chuẩn nghèo mới; riêng 63 huyện nghèo giảm 4%. Năm 2011 có khoảng 4%  số xã đạt các tiêu chí nông thôn mới.
- Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng xuống khoảng 17,3%.
- Số giường bệnh/10 nghìn dân: 21 giường (không tính giường bệnh của trạm y tế xã).
- Diện tích sàn nhà ở đô thị bình quân đầu người: 19 m2.
Các chỉ tiêu môi trường
- Tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh: 86%.
- Tỷ lệ dân số đô thị được sử dụng nước sạch: 78%.
- Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng được xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường: 69%.
- Tỷ lệ chất thải rắn y tế được xử lý: 82%.
- Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường: 55%.
- Tỷ lệ chất thải rắn ở đô thị được thu gom: 83%.
- Tỷ lệ che phủ rừng: 40%.

II. CÁC  NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU

1. Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế

Năm 2011, ổn định kinh tế vĩ mô được xác định là cơ sở, là điều kiện để bảo đảm phát triển bền vững với mức tăng trưởng cao hơn năm 2010, đây cũng là một nhiệm vụ chủ yếu trong chỉ đạo điều hành của Chính phủ với các trọng tâm là cải thiện cán cân thanh toán, kiểm soát lạm phát và phấn đấu giảm bội chi.

Trước hết, triển khai đồng bộ, quyết liệt các giải pháp nhằm cải thiện cán cân thanh toán, tập trung vào: đẩy mạnh xuất khẩu, quản lý tốt nhập khẩu; khai thác có hiệu quả hơn các thị trường truyền thống, các thị trường đã ký hiệp định mậu dịch tự do, nhất là thị trường Nhật Bản, Trung Quốc và ASEAN; chủ động phát triển các thị trường mới. Khuyến khích chuyển dịch cơ cấu đầu tư, kể cả đầu tư nước ngoài theo hướng tạo ra năng lực sản xuất và năng lực xuất khẩu mới, ứng dụng công nghệ cao, ít tiêu hao năng lượng và ưu tiên các địa bàn có điều kiện khó khăn; tăng hàm lượng nội địa và giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu. Áp dụng hàng rào kỹ thuật phù hợp với các cam kết quốc tế để ngăn chặn nhập khẩu các mặt hàng không khuyến khích, gây ô nhiễm môi trường. Ngăn chặn, xử lý nghiêm hành vi buôn lậu và gian lận thương mại. Triệt để thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng, nhất là nguyên liệu, năng lượng nhằm giảm giá thành và tăng sức cạnh tranh của sản phẩm. Thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” để góp phần giảm nhập khẩu. Tiếp tục thu hút và đẩy nhanh tiến độ giải ngân các nguồn vốn ODA, FDI; tăng cường giám sát và chủ động phân tích, dự báo sự dịch chuyển dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII); tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích, thu hút du lịch quốc tế và nguồn kiều hối.

Thứ hai, kiểm soát lạm phát ở mức khoảng 7% trên cơ sở điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thận trọng, áp dụng tỷ giá, lãi suất phù hợp theo nguyên tắc thị trường, tăng tổng phương tiện thanh toán phù hợp với các chỉ tiêu vĩ mô, phối hợp chặt chẽ chính sách tài khóa với chính sách tiền tệ. Tăng cường quản lý giá đối với một số hàng hóa, dịch vụ độc quyền, ngăn chặn và kiên quyết xử lý hành vi liên kết và lạm dụng vị thế thị trường để tăng giá, nhất là giá các nguyên liệu đầu vào quan trọng và các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu. Thực hiện cơ chế giá thị trường đối với điện, than đi đôi với phấn đấu giảm chi phí sản xuất và khai thác, nâng cao năng suất, hạ giá thành của các sản phẩm này; đối với các hộ tiêu dùng có điều kiện khó khăn, các đối tượng chính sách sẽ thực hiện cơ chế hỗ trợ phù hợp. Sử dụng linh hoạt công cụ thuế để bình ổn giá xăng, dầu.

Thứ ba, giảm bội chi ngân sách nhà nước xuống mức 5,5% GDP và phấn đấu giảm xuống mức 5% vào năm 2012. Tạo môi trường thuận lợi để phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh; giảm tỷ lệ huy động vào ngân sách so với GDP để nuôi dưỡng nguồn thu đồng thời với chống thất thu. Tiếp tục đổi mới chính sách và cơ cấu chi ngân sách nhà nước, bảo đảm chi đúng mục đích, tiết kiệm và chống lãng phí. Giảm tỷ trọng đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ; rà soát danh mục đầu tư của Nhà nước, tập trung vốn cho các dự án cơ sở hạ tầng quan trọng đã đủ thủ tục đầu tư và đang là những ’nút thắt’ cản trở sự phát triển; đầu tư cao hơn cho nông nghiệp, nông thôn, các dự án giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực, tạo việc làm, xây dựng cơ sở khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe nhân dân. Kiểm soát chặt đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, nợ công và nợ nước ngoài; khuyến khích, tạo điều kiện thu hút đầu tư tư nhân và đầu tư nước ngoài.

2. Tiếp tục cải thiện môi trường và nâng cao hiệu quả đầu tư, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh gắn với tái cấu trúc nền kinh tế

Rà soát để hoàn thiện các quy định hiện hành, bảo đảm bình đẳng về quyền và cơ hội tiếp cận các nguồn lực, nhất là đất đai, tín dụng; xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh và có tính cạnh tranh cao. Cải cách mạnh thủ tục đầu tư, khắc phục tình trạng phiền hà, xử lý nghiêm tệ lạm dụng, sách nhiễu.

Tiếp tục hoàn thiện và công bố quy hoạch phát triển ngành, vùng và địa phương, danh mục các lĩnh vực, địa bàn cấm kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện. Xóa bỏ bao cấp và ưu đãi dưới mọi hình thức đối với doanh nghiệp nhà nước; tính đúng, tính đủ giá trị sản phẩm, từ đó, đặt doanh nghiệp nhà nước vào môi trường kinh doanh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.

Trong năm 2011 thực hiện một bước tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tập trung vào các nội dung sau:

- Phát triển công nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh, giảm tỷ trọng công nghiệp khai thác, tăng tỷ trọng công nghiệp chế tác có giá trị gia tăng cao và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu; tiến tới chấm dứt xuất khẩu khoáng sản thô; phát triển công nghiệp hỗ trợ, chủ động hợp tác sản xuất các thiết bị công nghệ cao trong một số ngành công nghiệp mà nước ta có thế mạnh; đẩy mạnh chương trình sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm; khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, tiết kiệm năng lượng, công nghiệp phục vụ nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Tập trung thực hiện các giải pháp để tăng nhanh nguồn điện, thực hiện kiên quyết và có hiệu quả việc tiết kiệm điện cả trong sản xuất và tiêu dùng, phấn đấu bảo đảm cung ứng đủ điện cho yêu cầu sản xuất và sinh hoạt.

- Tập trung hoàn thiện khuôn khổ chính sách, ưu tiên phát triển mạnh các dịch vụ có tiềm năng và lợi thế, có hàm lượng trí tuệ, mang lại giá trị gia tăng cao như công nghệ thông tin, logistic, cảng biển, tài chính, du lịch, phân phối, dịch vụ y tế, giáo dục.

- Phát triển sản xuất nông nghiệp, chú trọng nông nghiệp công nghệ cao, áp dụng rộng rãi quy trình sản xuất nông sản an toàn. Khuyến khích phát triển chăn nuôi tập trung, quy mô lớn gắn với cơ sở giết mổ để bảo đảm phòng chống dịch bệnh. Khuyến khích mạnh trồng rừng kinh tế; đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ để nâng cao năng suất, hiệu quả của các loại rừng; tăng cường quản lý, bảo vệ rừng; thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng. Ðẩy mạnh nuôi trồng thủy sản, khuyến khích đầu tư nâng cao hiệu quả khai thác xa bờ. Ðề cao trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm an toàn cho ngư dân; phát triển dịch vụ hậu cần cho nghề cá. Tăng đầu tư từ ngân sách đồng thời khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn, phát triển công nghệ sinh học, công nghệ chế biến nhằm tạo ra các sản phẩm nông nghiệp có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Xây dựng các cơ sở bảo quản, dự trữ nông sản để điều hòa cung cầu, ổn định giá cả.

- Ðẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước vừa là một nội dung của tái cấu trúc nền kinh tế, vừa là một yếu tố quan trọng góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ðẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, tiếp tục bán số cổ phần nhà nước không cần nắm giữ trong các doanh nghiệp đã cổ phần hóa. Cải cách các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước cả về định hướng và nội dung hoạt động, cả về quản trị doanh nghiệp và cơ chế thực hiện quyền chủ sở hữu nhà nước. Theo đó, tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước phải tập trung vào những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân, phù hợp với xu hướng phát triển của khoa học công nghệ nhằm thực hiện chính sách cơ cấu và chính sách công nghiệp, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa theo hướng hiện đại. Tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước phải tập trung vào ngành nghề sản xuất kinh doanh chính, nâng cao năng lực công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực nhằm tạo dựng lợi thế cạnh tranh dài hạn để có thể tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Thực hiện công khai minh bạch theo các tiêu chí hoạt động đặt ra cho từng tập đoàn và từng tổng công ty, thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc; đặt tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước vào môi trường cạnh tranh. Ðây chính là giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả của tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước, góp phần làm cho kinh tế nhà nước giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.

Về Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (VINASHIN), theo chương trình của Kỳ họp, Chính phủ đã có báo cáo gửi đến các vị đại biểu Quốc hội. Tình trạng nghiêm trọng hiện nay của VINASHIN chủ yếu là do sự yếu kém trong quản lý, thiếu tinh thần trách nhiệm, cố ý làm trái, báo cáo không trung thực của lãnh đạo Tập đoàn. Thực trạng này có trách nhiệm của Chính phủ, của các Bộ liên quan trong việc quản lý nhà nước và quản lý của chủ sở hữu. Chính phủ đã nghiêm túc kiểm điểm, xác định nguyên nhân và đề ra kế hoạch cụ thể để xử lý, chấn chỉnh các hoạt động của Tập đoàn. Bộ Chính trị đã nghe Chính phủ báo cáo và đã có kết luận chỉ đạo. Chính phủ đang triển khai thực hiện và đến nay đã có một số kết quả bước đầu. Chính phủ cũng đang chỉ đạo rà soát, hoàn thiện thể chế để nâng cao hiệu lực quản lý và hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước.

3. Bảo đảm tốt an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, tiếp tục cải thiện đời sống nhân dân

Triển khai đồng bộ các chính sách và giải pháp xóa đói giảm nghèo gắn với giải quyết việc làm và đào tạo nghề, nhất là cho người nghèo, lao động nông thôn, bộ đội xuất ngũ, vùng đô thị hóa. Xây dựng và triển khai có hiệu quả Chiến lược an sinh xã hội 2011 - 2020, Chương trình giảm nghèo bền vững và chương trình việc làm giai đoạn 2011 - 2015; phấn đấu để năm 2011 tỷ lệ hộ nghèo giảm được 2% theo chuẩn mới. Tiếp tục hoàn thiện chính sách đối với người có công, chính sách đối với thanh niên xung phong, chính sách trợ cấp xã hội. Triển khai có hiệu quả chương trình xây dựng nông thôn mới, trong năm 2011, phấn đấu cơ bản hoàn thành quy hoạch và đề án phát triển nông thôn mới ở các xã, triển khai đầu tư các hạng mục đã có đủ điều kiện; đẩy mạnh chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn.

Tiếp tục phát triển mạng lưới y tế, nhất là tuyến cơ sở ở khu vực nông thôn, gắn với luân chuyển và cải thiện chế độ đãi ngộ đối với cán bộ y tế. Nâng cao năng lực và chất lượng khám chữa bệnh của hệ thống y tế các cấp. Ðẩy nhanh tiến độ thực hiện các đề án xây dựng, cải tạo, nâng cấp các bệnh viện, tạo những tiến bộ rõ rệt trong việc giảm tải ở các bệnh viện tuyến trung ương và tuyến tỉnh. Tăng cường công tác y tế dự phòng. Ðổi mới cơ chế tài chính trong y tế, từng bước điều chỉnh phù hợp giá dịch vụ y tế; chuyển dần hình thức bao cấp cho cơ sở y tế sang hỗ trợ trực tiếp người bệnh thông qua bảo hiểm y tế. Ðẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích phát triển các cơ sở y tế ngoài công lập, nhất là cơ sở khám chữa bệnh kỹ thuật cao. Tiếp tục khuyến khích phát triển công nghiệp dược. Tăng cường quản lý nhà nước về thuốc chữa bệnh. Thực hiện có hiệu quả việc quản lý chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm.

Hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm phát triển hệ thống bảo hiểm ngày càng đa dạng, đồng bộ, bền vững. Thực hiện bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp trên nguyên tắc ’đóng - hưởng’ có sự hỗ trợ hợp lý của Nhà nước cho các đối tượng chính sách. Triển khai thí điểm các loại hình bảo hiểm khác. Có chính sách hỗ trợ nông dân tham gia bảo hiểm đối với những sản phẩm có sản lượng lớn liên quan đến sản xuất và đời sống của đông đảo nông dân.

Tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước, hoàn thiện pháp luật, cơ chế chính sách để phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Giáo dục. Xây dựng Luật Giáo dục đại học và Chiến lược giáo dục và đào tạo 2011 - 2020. Mở rộng mạng lưới giáo dục đào tạo, dạy nghề, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ nhà giáo gắn với đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục; đẩy mạnh chuẩn hóa và hiện đại hóa trong giáo dục đào tạo, nhất là đối với đào tạo đại học và đào tạo nghề, chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu xã hội. Tăng cường giáo dục đạo đức, nhân cách và ngăn chặn bạo lực trong nhà trường. Hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở đào tạo đi đôi với đổi mới phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo, triển khai cơ chế tài chính và chính sách học phí mới. Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với các hoạt động giáo dục, đào tạo, nhất là việc thành lập mới, liên kết, hợp tác đào tạo với nước ngoài, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm. Tiếp tục thực hiện các đề án về phát triển giáo dục và đào tạo đã được phê duyệt (17). Khẩn trương triển khai Ðề án phát triển nguồn nhân lực 2011 - 2020.

Triển khai thực hiện Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020. Chú trọng xây dựng con người, nhất là về nhân cách, đạo đức gắn với xây dựng đời sống, lối sống và môi trường văn hóa; quan tâm phát triển văn học, nghệ thuật, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc; tích cực xây dựng thể chế, thiết chế văn hóa và giao lưu văn hóa với thế giới. Ðẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể thao; triển khai mạnh mẽ ’Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa’. Chú trọng nâng cao đời sống văn hóa ở nông thôn, vùng khó khăn, thu hẹp dần khoảng cách thụ hưởng văn hóa thông tin giữa các vùng, các nhóm xã hội, giữa đô thị và nông thôn. Thực hiện tốt chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Ðảng về chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại, gây hủy hoại đạo đức xã hội. Quan tâm chỉ đạo xây dựng nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội; ngăn chặn và đẩy lùi các hủ tục, mê tín dị đoan, các tệ nạn xã hội.

Xây dựng gia đình Việt Nam tiến bộ, hạnh phúc; thực hiện tốt hơn bình đẳng giới, sự tiến bộ của phụ nữ và chăm sóc trẻ em; bảo đảm việc kết hôn với người nước ngoài đúng quy định của pháp luật, xử lý nghiêm các hành vi tiêu cực, xúc phạm nhân phẩm tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam.

Phát huy dân chủ, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của  công dân; nâng cao năng lực, trách nhiệm và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện tốt quyền làm chủ và phát huy sức sáng tạo của mình để xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

4. Ðẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ và tăng cường bảo vệ, cải thiện môi trường, góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng

Tiếp tục đầu tư cho nghiên cứu cơ bản có trọng tâm trọng điểm, bảo đảm hiệu quả thiết thực. Ðẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ, nhất là công nghệ cao, công nghệ tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng để nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm. Hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát triển thị trường công nghệ và doanh nghiệp khoa học công nghệ; hỗ trợ các đơn vị sự nghiệp hoạt động theo cơ chế tự chủ, khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ hiện đại, thân thiện môi trường; kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu thiết bị, công nghệ cũ, công nghệ gây ô nhiễm môi trường. Hỗ trợ triển khai chương trình sản phẩm và chương trình đổi mới công nghệ quốc gia. Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ theo hướng nâng cao quyền tự chủ của các đơn vị gắn với đẩy mạnh xã hội hóa, phát huy vai trò của các quỹ phát triển khoa học, công nghệ; hình thành và đưa vào hoạt động Quỹ đổi mới công nghệ và Quỹ đầu tư mạo hiểm công nghệ cao quốc gia. Triển khai Ðề án đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về công nghệ thông tin; Chương trình thúc đẩy năng suất, chất lượng sản phẩm đến năm 2020; Chương trình phát triển công nghệ cao; Chương trình hỗ trợ và chuyển giao tiến bộ khoa học và công nghệ tại các vùng nông thôn, miền núi đến năm 2015; Ðề án phát triển nông nghiệp công nghệ cao đến năm 2020. Hoàn thiện các điều kiện để thu hút mạnh đầu tư vào các khu công nghệ cao Hòa Lạc và thành phố Hồ Chí Minh. Xây dựng Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ 2011 - 2020.

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, chú trọng hoàn thiện thể chế, phân cấp quản lý gắn với nâng cao trách nhiệm, tăng cường kiểm tra, thanh tra và xử lý nghiêm những vi phạm pháp luật về môi trường. Kiểm soát chặt chẽ việc cấp phép khai thác khoáng sản, các dự án đầu tư sử dụng nhiều tài nguyên, năng lượng; kiên quyết không cấp phép cho các dự án đầu tư mới không đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường. Thực hiện nghiêm túc lộ trình xử lý các cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng. Có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư cải thiện môi trường, thu gom, xử lý và tái chế nước thải, rác thải, ứng dụng công nghệ mới để làm sạch môi trường. Ðẩy mạnh triển khai Chương trình về nước sạch và vệ sinh môi trường, đưa tỷ lệ dân cư nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh lên 86%. Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao ý thức của doanh nghiệp và người dân trong việc bảo vệ môi trường, coi đó là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên để phát triển bền vững và nâng cao chất lượng cuộc sống.

Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ và phát triển bền vững tài nguyên rừng. Bảo vệ tốt rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và khuyến khích phát triển nhanh rừng sản xuất. Phấn đấu năm 2011 độ che phủ rừng đạt 40%. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên nước; tích cực triển khai Chương trình mục tiêu và Kế hoạch hành động quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các cơ sở nghiên cứu, dự báo về biến đổi khí hậu. Triển khai có hiệu quả các chương trình nâng cấp đê biển, đê sông, giải pháp chống ngập úng cho các thành phố lớn; ứng phó có hiệu quả với thiên tai bão lũ.

5. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính và phòng chống tham nhũng, lãng phí.

Rà soát, hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương, bảo đảm quy hoạch, cơ cấu kinh tế và sự quản lý thống nhất của Trung ương; đồng thời, phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, sát thực tế của địa phương và cơ sở; gắn phân cấp với tăng cường kiểm tra, giám sát của cấp trên và chịu trách nhiệm của cấp dưới. Chính phủ sẽ điều chỉnh phù hợp việc phân cấp quản lý trong một số ngành, lĩnh vực. Tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng quy hoạch và quản lý phát triển theo quy hoạch, bảo đảm yêu cầu liên thông giữa các ngành, các vùng. Tăng cường chất lượng và hiệu quả công tác phối hợp giữa các cơ quan nhà nước. Xây dựng nền hành chính, công vụ hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, thông suốt, nhạy bén, đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Ðẩy mạnh cải cách hành chính, hoàn thiện thể chế và coi trọng kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Phát huy dân chủ, tăng cường đối thoại và phản biện chính sách nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả thực thi. Tập trung thực hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính, kiểm soát chặt chẽ việc ban hành mới thủ tục hành chính theo hướng tăng cường tính minh bạch, công khai, sát thực tiễn. Ðẩy mạnh triển khai Ðề án Chính phủ điện tử. Chuẩn bị và triển khai tốt việc kiện toàn tổ chức, cơ cấu, bộ máy Chính phủ và chính quyền địa phương nhiệm kỳ mới. Tổ chức thực hiện nghiêm Luật Cán bộ công chức, bảo đảm dân chủ và đề cao kỷ luật hành chính, tinh thần trách nhiệm và đạo đức công vụ. Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, báo cáo không trung thực.

Nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng; chú trọng thực hiện các biện pháp phòng ngừa; đẩy mạnh việc phát hiện, điều tra, kết luận và xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra nhất là trong các lĩnh vực đất đai, khoáng sản, đầu tư công, hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.

Thực hiện nghiêm túc các quy định về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, nâng cao ý thức thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tạo thành thói quen, nếp sống của mỗi người và cả cộng đồng.

Thực hiện tốt công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tăng cường đối thoại, xử lý kịp thời, dứt điểm các vụ việc từ cơ sở, không để tồn đọng kéo dài gây bức xúc, bất bình trong nhân dân.

6. Tăng cường quốc phòng, an ninh và nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại

Thực hiện có hiệu quả các giải pháp để tạo sức mạnh tổng hợp bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ và an ninh quốc gia. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh. Chủ động phát hiện, ngăn chặn mọi âm mưu chống phá, gây rối, gây bạo loạn của các thế lực thù địch. Tăng cường bảo vệ an ninh biên giới, biển đảo và các lĩnh vực, địa bàn trọng điểm. Thực hiện có hiệu quả các chương trình quốc gia về phòng, chống tội phạm, phòng chống ma túy, buôn bán phụ nữ, trẻ em.

Ðẩy mạnh ngoại giao toàn diện cả về chính trị, kinh tế, văn hóa. Kết hợp chặt chẽ giữa ngoại giao Nhà nước với đối ngoại của Ðảng và ngoại giao nhân dân. Không ngừng phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước, nhất là các nước láng giềng, các nước trong khu vực, bạn bè truyền thống, các nước lớn; chủ động đưa quan hệ với các đối tác đi vào chiều sâu, ổn định và bền vững, tăng cường xây dựng và củng cố lòng tin trong quan hệ đối ngoại. Nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền và thông tin đối ngoại. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, tham gia có trách nhiệm vào các cơ chế khu vực và toàn cầu, tạo môi trường thuận lợi và tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài cho phát triển và bảo vệ đất nước. Trước mắt, phải tập trung mọi nỗ lực để thực hiện tốt vai trò Chủ tịch ASEAN tại các hội nghị cấp cao ASEAN và ASEAN với các đối tác (ASEAN +1, ASEAN+3, Cấp cao Ðông Á, Cấp cao các nước tiểu vùng Mê Kông...) và các chuyến thăm song phương cấp cao sẽ diễn ra vào cuối tháng này.

Thực hiện có hiệu quả các hiệp định đã có, thúc đẩy đàm phán, ký kết mới các hiệp định mậu dịch song phương và đa phương để mở rộng thị trường xuất khẩu, đầu tư, tiếp thu kỹ thuật công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Bảo vệ lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp trong quan hệ kinh tế với nước ngoài.

Thực hiện tốt hơn việc giới thiệu, quảng bá bản sắc văn hóa và hình ảnh quốc gia, thu hút du khách. Tạo điều kiện, hỗ trợ kiều bào ta làm ăn sinh sống, hòa nhập tốt ở nước sở tại và gắn bó với quê hương đất nước, làm cầu nối tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam với các nước.

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Ðánh giá đúng những ưu điểm, thành tựu để phát huy, thấy rõ những khuyết điểm, yếu kém để khắc phục; ra sức phấn đấu đạt được những kết quả cao hơn trong năm 2011 là mong muốn và là trách nhiệm của tất cả chúng ta. Bước sang giai đoạn phát triển mới, thực tiễn đang thôi thúc toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới sâu sắc và toàn diện hơn, phát huy cao độ sức mạnh trí tuệ, tinh thần và vật chất của đồng bào ta cả ở trong nước và ngoài nước, quyết tâm vượt qua thách thức, tận dụng cơ hội đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Cần làm tốt công tác chính trị tư tưởng, thông tin tuyên truyền, tạo sự đồng thuận cao trong hệ thống chính trị và trong toàn xã hội, huy động sự nỗ lực của toàn dân vào việc thực hiện nhiệm vụ phát triển đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống của mọi người dân.

Các ngành, địa phương và các đơn vị phải triển khai thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ kế hoạch năm 2011 ngay sau khi được Quốc hội thông qua; tập trung vào các khâu đột phá, lựa chọn đúng trọng tâm, trọng điểm trong từng thời gian; đồng thời làm tốt công tác dự báo để có phản ứng chính sách phù hợp, kịp thời; tăng cường công tác phối hợp và nỗ lực phấn đấu từ những ngày đầu, tháng đầu để đạt kết quả tốt nhất trên từng lĩnh vực, từng mặt công tác.

Khẩn trương xây dựng chương trình hành động cụ thể, thiết thực đưa Nghị quyết Ðại hội Ðảng lần thứ XI vào cuộc sống. Lấy kết quả thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và cải thiện đời sống nhân dân làm thước đo năng lực và hiệu quả hoạt động của các cấp, các ngành.

Chính phủ xin trân trọng đề nghị Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân và đồng chí, đồng bào trong cả nước tăng cường giám sát, phối hợp hành động, nỗ lực phấn đấu tạo sự chuyển biến đồng bộ và mạnh mẽ hơn nữa trên các mặt công tác để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2011, mở đầu Kế hoạch 5 năm 2011 - 2015.

Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Ðảng, sự quản lý của Nhà nước và quyết tâm, chung sức chung lòng của toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân và sự nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp, chúng ta tin tưởng sẽ thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kế hoạch đã đề ra.

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Trong những ngày vừa qua, lũ lụt nghiêm trọng xảy ra tại một số tỉnh miền Trung gây thiệt hại rất nặng nề. Chính phủ sẽ tiếp tục làm hết sức mình đồng thời kêu gọi đồng bào cả nước nêu cao truyền thống tương thân tương ái, ủng hộ thiết thực để cùng với Ðảng bộ, chính quyền, quân và dân các địa phương vùng bị thiên tai chống chọi với bão lũ, vượt qua khốn khó, hạn chế thấp nhất thiệt hại, sớm khắc phục hậu quả, nhanh chóng ổn định cuộc sống, khôi phục sản xuất.

Xin cảm ơn các vị đại biểu, đồng bào, đồng chí.


(1) Quý 1 tăng 5,83%, quý 2 tăng 6,4%, quý 3 tăng 7,16%. Dự kiến quý 4 tăng 7,2%.
(2) Trong đó, vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước ước bằng 22,5% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tăng 4,7% so với năm 2009, các số liệu tương đương về vốn trái phiếu Chính phủ là 8,5% và 47,8%; vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là 6,9% và 18,9%; vốn đầu tư của dân cư và tư nhân là 31,2%, tăng 3,9%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (không kể phần đóng góp trong nước) là 21,5% và 28%.
(3) Tính bình quân, giá tiêu dùng chín tháng đầu năm 2010 tăng 8,64% so với cùng kỳ.
(4) Theo số liệu điều tra của Tổng Cục Thống kê, số hộ nghèo là 10,6%.
(5) Tính đến ngày 19-10-2010, ngân sách trung ương chi 1.660 tỷ đồng, cấp không thu tiền 70 nghìn tấn gạo.
(6) Năm 2010, đáp ứng thêm chỗ ở cho khoảng 180 nghìn sinh viên, 27 nghìn công nhân khu công  nghiệp, hoàn thành 1.600 căn hộ cho người thu nhập thấp đô thị và hơn 197 nghìn nhà ở cho người nghèo ở nông thôn.
(7) Số người tham gia bảo hiểm bắt buộc tăng từ 8,9 triệu năm 2009 lên 9,6 triệu (năm 2010), bảo hiểm tự nguyện năm 2010 khoảng 100 nghìn người, bảo hiểm thất nghiệp 6,4 triệu người. Ðến tháng 9 năm 2010 đã có trên 90 nghìn người thất nghiệp được hưởng trợ cấp thường xuyên. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đã tăng từ 58% năm 2009 lên 62%, trong đó, có 15 triệu người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng khó khăn và khoảng 9 triệu trẻ em dưới 6 tuổi được cấp thẻ BHYT, khám chữa bệnh miễn phí.
(8) Năm 2010, từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, tiếp tục đầu tư xây dựng, nâng cấp 645 bệnh viện huyện, 55 bệnh viện lao, 39 bệnh viện điều trị tâm thần, 31 bệnh viện sản nhi, 12 trung tâm và 10 bệnh viện ung bướu, 65 bệnh viện đa khoa tỉnh.
(9) Sau hai năm thực hiện đề án kiên cố hóa trường lớp học và nhà công vụ giáo viên đã hoàn thành gần 46 nghìn phòng học, gần 19 nghìn nhà công vụ giáo viên đưa vào sử dụng (cải thiện điều kiện sống của 40 nghìn giáo viên). Năm học 2009 - 2010, giáo dục mầm non, phổ thông, giáo dục thường xuyên tăng 650 trường, giáo dục đại học tăng bảy trường so với năm học 2008 - 2009.
(10) Học kỳ I năm 2008 - 2009, số học sinh bỏ học là 86.269 em (chiếm tỷ lệ 0,56%); năm học 2009 - 2010 là 75.691 em (chiếm tỷ lệ 0,51%).
(11) Ðó là Văn bia Tiến sĩ tại Văn miếu Quốc Tử Giám (Hà Nội) và Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long.
(12) Với hơn 5.700 thủ tục, hơn 100 nghìn biểu mẫu được quy định trong hơn 9.000 văn bản pháp luật.
(13) 8 tháng đầu năm 2010, ngành Tư pháp đã kiểm tra 54.686 văn bản, phát hiện 2.513 văn bản có dấu hiệu trái pháp luật; kiến nghị xử lý 1.962 văn bản và đã xử lý xong 1.490 văn bản.
(14) Ðã tiến hành 7.000 cuộc thanh tra kinh tế xã hội và trên 1.200 cuộc thanh tra trách nhiệm quản lý nhà nước...  khởi tố 188 vụ án với 373 bị can, truy tố 253 vụ với 661 bị can, xét xử sơ thẩm 211 vụ với 479 bị can với các tội danh tham nhũng.
(15) Ðến hết tháng 9-2010, 25 Bộ, ngành và 31 địa phương đã tiết kiệm được hơn 2.700 tỷ đồng, 9 tập đoàn, tổng công ty nhà nước tiết kiệm được 2.350 tỷ đồng.
(16) Năm 2010 đạt và vượt kế hoạch 16/21 chỉ tiêu đề ra, chiếm 76%. Năm năm
2006 - 2010 đạt và vượt kế hoạch 19/29 chỉ tiêu chủ yếu.
(17) Ðề án kiên cố hóa trường lớp học và nhà công vụ giáo viên; Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục và đào tạo; Ðề án đào tạo chương trình tiên tiến tại một số trường đại học giai đoạn 2008 - 2015; Ðề án dạy ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008 - 2015; Chương trình tăng cường tiếng Việt cho học sinh dân tộc ở mầm non và tiểu học; Ðề án phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi, đào tạo giáo viên là người dân tộc...

(*) Ðầu đề là của Báo Nhân Dân.

Đọc thêm