42.990 tỷ đồng tiền nợ thuế không còn khả năng nộp ngân sách

(PLVN) - Tổng số tiền nợ thuế tính đến ngày 31/8/2019 là 88.253 tỷ đồng, tăng 8,2% so với thời điểm 31/12/2018, trong đó tiền nợ thuế không còn khả năng nộp ngân sách là 42.990 tỷ đồng, chiếm 48,7% tổng số tiền nợ thuế.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng.

Tiếp tục chương trình kỳ họp, sáng nay (22/10), thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng trình bày Tờ trình về dự thảo Nghị quyết về khoanh tiền nợ thuế, xóa tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước.

15.779 tỷ đồng không có khả năng thu hồi

Theo Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng, thực hiện quy định của Luật Quản lý thuế với chức năng nhiệm vụ được giao, trong thời gian qua cơ quan quản lý thuế đã có nhiều nỗ lực trong việc thu hồi nợ đọng thuế, theo đó công tác quản lý nợ thuế đã đạt được kết quả quan trọng. 

Tỷ trọng tổng nợ trên tổng thu nội địa đã giảm mạnh từ 12,2% năm 2014, đến cuối tháng 8 năm 2019 giảm xuống ở mức 6,9%.

Tuy nhiên, tình hình nợ đọng thuế vẫn còn cao, tổng số tiền nợ thuế tính đến ngày 31/8/2019 là 88.253 tỷ đồng, tăng 8,2% so với thời điểm 31/12/2018, trong đó tiền nợ thuế không còn khả năng nộp ngân sách là 42.990 tỷ đồng, chiếm 48,7% tổng số tiền nợ thuế.

Về nguyên nhân của việc nợ đọng thuế, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết, trong số nợ đọng thuế nêu trên, theo thống kê, đánh giá của cơ quan quản lý thuế, là do người nộp thuế đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, tự giải thể, phá sản, bị thiên tai, thảm họa bất ngờ không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước. 

Cũng theo Bộ trưởng Dũng, Luật Quản lý thuế quy định tiền chậm nộp là 0,03%/ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp, quy định này là chế tài xử lý cần thiết. 

Tuy nhiên, do người nộp thuế đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc các doanh nghiệp đang làm thủ tục giải thể, phá sản hoặc doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh thực tế đã ngừng hoạt động hoặc bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mà không còn khả năng nộp thuế nên số tiền chậm nộp ngày càng tăng theo thời gian.

Tổng số tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp cơ quan quản lý thuế đã tính và quản lý của các đối tượng nêu trên tính đến ngày 31/8/2019 là 15.779 tỷ đồng, song thực tế không có khả năng thu hồi.

Theo Chính phủ, thực hiện chỉ đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 19/3/2019, Chính phủ đã hoàn thiện Luật Quản lý thuế sửa đổi trình Quốc hội ban hành Luật Quản lý thuế. Tại Luật này đã quy định đầy đủ các đối tượng được xử lý nợ (chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, giải thể, phá sản, bị thiên tai, bất khả kháng...) và các điều kiện xử lý, thẩm quyền xử lý nợ. 

Tuy nhiên, Luật Quản lý thuế có hiệu lực thi hành từ 1/7/2020, vì vậy đối với các khoản nợ phát sinh trước ngày 1/7/2020 không được hồi tố để xử lý.

Bên cạnh đó, Luật Quản lý thuế hiện hành quy định 3 trường hợp được xóa nợ thuế nhưng phải đáp ứng được điều kiện là phải thực hiện tuần tự các biện pháp cưỡng chế nợ và khoản nợ thuế đủ 10 năm. Hầu hết các khoản nợ hiện nay chưa đủ điều kiện 10 năm nên không được xử lý nợ.

Trong khi đó, đối với các trường hợp người nộp thuế đã chết, đã mất tích, giải thể, phá sản, ngừng bỏ hoạt động kinh doanh, thực tế không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước nhưng vẫn phải tính tiền phạt và tiền chậm nộp. Số nợ này là nợ ảo, không còn khả năng thu vào ngân sách. 

Theo Luật Quản lý thuế thì các đối tượng này được khoanh nợ. Tuy nhiên, Luật Quản lý thuế hiện hành không có quy định khoanh nợ. Đây là trường hợp phát sinh trước ngày Luật Quản lý thuế mới có hiệu lực, nhưng lại chưa được quy định tại Luật Quản lý thuế hiện hành, vì vậy Chính phủ thấy cần thiết phải báo cáo Quốc hội cho cơ chế xử lý.

Vẫn theo Chính phủ, Luật Quản lý thuế trước đây quy định tiền phạt, phạt chậm nộp, tuy nhiên theo quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính yêu cầu phải tách 2 hành vi, phạt vi phạm hành chính và tiền chậm nộp. 

Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH13 có hiệu lực từ 1/7/2013 đã điều chỉnh hành vi chậm nộp tiền thuế bị “phạt chậm nộp” thành “tiền chậm nộp”. Do đó, đối với các khoản “tiền chậm nộp” theo Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH13 đến nay chưa có cơ chế xử lý.

Thêm một lý do khác là Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 quy định đối với các trường hợp gặp thiên tai bất khả kháng thì được miễn xử phạt vi phạm pháp luật đối với hành vi chậm nộp tiền thuế hay còn gọi là “phạt chậm nộp”. Tuy nhiên, Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH13 thì không có quy định miễn đối với “tiền chậm nộp”. 

Vì vậy, đối với một số khoản tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp thuộc các trường hợp gặp thiên tai bất khả kháng phát sinh tiền chậm nộp chưa được xử lý. Do đó, Chính phủ thấy cần báo cáo Quốc hội để có cơ chế xử lý.

Chính phủ cũng chỉ ra rằng các khoản nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp phát sinh do ngân sách nhà nước chưa thanh toán cho người nộp thuế cung ứng hàng hoá, dịch vụ được thanh toán trực tiếp bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước thì theo quy định tại Luật Quản lý thuế và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế, từ ngày 1/1/2011 nếu người nộp thuế chưa được thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản thì được gia hạn nộp thuế tối đa 2 năm; đến Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật về thuế có hiệu lực từ ngày 1/1/2015 đã có quy định không tính tiền chậm nộp cho những đối tượng này. 

Tuy nhiên, còn một số trường hợp phát sinh trước ngày 01/01/2011 đến nay còn nợ đọng tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp chưa được xử lý, cần có cơ chế xử lý, đồng thời cần quy định rõ không chỉ nhà thầu chính mà cả nhà thầu phụ được quy định trong hợp đồng ký với chủ đầu tư.

“Từ tình hình trên, Chính phủ thấy rằng việc báo cáo Quốc hội có biện pháp để xử lý nợ đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước là cần thiết, tạo cơ sở pháp lý để xử lý nợ tồn đọng trước ngày 1/7/2020 mà không còn khả năng thu nộp ngân sách nhà nước”, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng nói.

Đề nghị không xóa nợ với các đối tượng không tuân thủ pháp luật

Trình bày Báo cáo thẩm tra dự thảo Nghị quyết, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải cho biết, qua nghiên cứu Tờ trình của Chính phủ, Ủy ban Tài chính ngân sách cơ bản nhất trí về sự cần thiết ban hành Nghị quyết như Tờ trình của Chính phủ để thực hiện việc khoanh nợ tiền thuế, xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với người nộp thuế không có khả năng nộp ngân sách theo đề nghị của Chính phủ.

Ủy ban Tài chính ngân sách đề nghị không xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với các đối tượng không tuân thủ theo quy định của pháp luật.

Để có căn cứ xác định thời điểm xóa nợ, Ủy ban này cũng đề nghị bổ sung nội dung quy định xác nhận về thời điểm xảy ra thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ.

Ngoài ra, để bảo đảm rõ ràng, phù hợp với nội dung Tờ trình của Chính phủ, Ủy ban tài chính ngân sách đề nghị cần quy định cụ thể về thời điểm xóa tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với các đối tượng còn nợ mà chưa được nhà nước thanh toán (phát sinh trước ngày 1/1/2011).

Ủy ban Tài chính ngân sách đề nghị Chính phủ đánh giá kỹ hơn về trách nhiệm chủ quan của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để xảy ra tình trạng nợ đọng thuế lớn, kéo dài qua nhiều năm.

Cùng với đó, cần báo cáo rõ việc khoanh nợ, xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với các khoản nợ liên quan đến tiền sử dụng đất, tiền thuê đất… theo Nghị quyết này và có đánh giá tác động cụ thể.

Có ý kiến đề nghị cân nhắc việc xử lý tiền nợ thuế đối với các doanh nghiệp nhà nước, vì doanh nghiệp nhà nước là pháp nhân do Nhà nước làm đại diện chủ sở hữu và hiện nay đang trong tiến trình cổ phần hóa, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Do vậy, việc khoanh tiền nợ thuế, xóa nợ nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp phải được xử lý trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp.  

Đọc thêm