Cánh quân thứ 6 trong Chiến dịch Hồ Chí Minh

(PLVN) - Đảo Song Tử Tây nửa đêm về sáng lặng lẽ. Sau khi 38 cán bộ, chiến sĩ Phân đội 1 bí mật bò sát mép đảo vào vị trí chiến đấu, Đội trưởng Quế hạ lệnh “nổ súng”. Một loạt đạn DKZ bắn thẳng vào lô cốt ụ súng đối phương. Những tiếng hô “xung phong” vang dậy khắp đảo. Hỏa lực từ tàu 673 tới tấp nã vào các mục tiêu.
Bộ đội trên quần đảo Trường Sa tháng 4/1975.
Bộ đội trên quần đảo Trường Sa tháng 4/1975.

Chiến thuật đánh trên bộ kết hợp dưới biển 

Chuyện giải phóng quần đảo Trường Sa 45 năm trước được coi là “cánh quân thứ 6”, còn giải phóng đảo Song Tử Tây được coi là “thê đội chủ lực” của “cánh quân thứ sáu”. Nói cách khác, Song Tử Tây là đảo giải phóng đầu tiên trong chiến dịch giải phóng Trường Sa 45 năm trước. 

“Đây được coi là sào huyệt, là cửa mở tiêu diệt địch. Nếu không giải phóng Song Tử Tây trước thì ngày ấy khó có thể giải phóng các đảo còn lại”, Thiếu tướng Mai Năng, người chỉ huy lực lượng ra giải phóng đảo Song Tử Tây tháng 4/1975 nhớ lại.

Trường Sa là địa danh nằm trong cục diện giải phóng đất nước, thu giang sơn về một mối, cùng với 5 cánh quân tiến vào Sài Gòn - Gia Định, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương xác định “đồng thời giải phóng Trường Sa”. Quân ủy Trung ương giao Quân chủng Hải quân trinh sát, nắm chắc tình hình và hành quân chiến đấu theo bức điện tuyệt mật của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi Khu ủy Khu 5 và Bộ Tư lệnh Hải quân.

Xác định Song Tử Tây là đảo phải giải phóng đầu tiên, đêm 10/4/1975, từ bến cảng Sơn Trà (Đà Nẵng), đoàn tàu không số của Lữ đoàn 125 được ngụy trang thành “đoàn tàu đánh cá” gồm 3 chiếc 673, 674, 675 nhổ neo ra khơi.

Trong bụng những con tàu đó có 300 cán bộ, chiến sĩ Đội 1 Đoàn 126 Đặc công Hải quân cùng các lực lượng Quân khu 5 và hàng chục tấn đạn dược thần tốc ra đảo. Thiếu tướng Mai Năng lúc đó đeo lon Trung tá, đi trên tàu 675, là chỉ huy biên đội tàu. 

Trước lúc lên đường, Phó Tư lệnh Hải quân Hoàng Hữu Thái giao nhiệm vụ cho biên đội tàu: “Trận này ta không thể đánh theo cách của đặc công nước. Phải đánh trinh sát vũ trang, có chỗ phải dùng hỏa lực. Khi giải phóng rồi phải tổ chức lực lượng phòng thủ đảo ngay và tiếp tục giải phóng các điểm đảo khác”. 

Kéo cờ Giải phóng trên đảo Sơn Ca ngày 25/4/1975.
 Kéo cờ Giải phóng trên đảo Sơn Ca ngày 25/4/1975. 

Được Phó Tư lệnh giao nhiệm vụ, Trung tá Năng tính toán trong đầu: “Phải vận dụng chiến thuật đánh trên bộ kết hợp dưới biển mới có thể đánh thắng địch. Đây là trận đánh quan trọng đến sinh mệnh của Trường Sa”. 

“Nằm trên boong tàu, tôi suy nghĩ về bao khó khăn đang ở phía trước. Lính đặc công nước lúc đó hầu hết là lính mới, có người chưa một ngày trải qua chiến đấu. Phải làm thế nào để bớt đổ máu? Bao câu hỏi đặt ra trong đầu tôi. Cuối cùng tôi đã tìm ra giải pháp “đánh vượt cạn trên biển””, ông Năng hồi tưởng.

- Đánh địch vượt cạn là thế nào, thưa ông?

- Là đánh theo kiểu đổ bộ đường sông nhưng địa hình là đảo. Đánh áp dụng chiến thuật tiến công, chốt chặn, ẩn nấp. Chiến thuật đánh vượt cạn trên biển nôm na là vậy. 

Rạng sáng 13/4/1975, biên đội tàu đã đến vùng biển Song Tử Tây. Trung tá Mai Năng mở tấm hải đồ Trường Sa, trỏ tay vào một điểm, dõng dạc: “Đây là đảo Song Tử Tây, chúng ta hiện đang ở tọa độ này. Tàu sẽ bí mật vào cách đảo 4 hải lý. Nếu điều kiện cho phép cứ vào sát nữa, vòng quanh đảo tìm vị trí đổ bộ”. 

Hướng về phía Đội trưởng Đội 1 Nguyễn Ngọc Quế, người được giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ huy bộ đội giải phóng đảo Song Tử Tây, Trung tá Năng nói: “Đồng chí cứ theo phương án đó mà thực hiện”.

Sức mạnh và tinh thần chiến đấu của Hải quân Việt Nam

Trong khi hai tàu 674 và 675 án ngữ phía Bắc, cách đảo Song Tử Tây hơn chục hải lý đề phòng đối phương từ phía Bắc xuống và nghi binh các tàu chiến của đối phương đang lởn vởn ở khu vực đảo Nam Yết, thì tàu 673 do Đội trưởng Nguyễn Ngọc Quế chỉ huy bí mật trinh sát vòng ngoài quanh đảo, xác định rõ vị trí tiến công. Đúng 7h sáng ngày 13/4/1975, Đội trưởng Nguyễn Ngọc Quế báo cáo, xin thông qua phương án tác chiến, quyết định: Hướng đổ bộ lên đảo là hướng Tây Nam nơi có bãi cát phẳng và đá san hô.   

Bộ đội thuộc Lữ đoàn 125 (đoàn tàu không số) phối hợp Lữ đoàn 126 có nhiệm vụ giải phóng quần đảo Trường Sa.
 Bộ đội thuộc Lữ đoàn 125 (đoàn tàu không số) phối hợp Lữ đoàn 126 có nhiệm vụ giải phóng quần đảo Trường Sa.

1h sáng ngày 14/4/1975, biên đội tàu 673, 674, 675 đã bí mật tiếp cận đảo Song Tử Tây cách 3 hải lý. Trên đảo phát ra những quầng sáng của mấy ngọn đèn bảo vệ từ các lô cốt. Xác định đây là thời cơ thuận lợi để hạ xuồng cho quân bí mật áp sát đảo, làm bàn đạp để tiến công, mệnh lệnh “thả xuồng” được truyền đi từ đài chỉ huy.

Tàu 673 nhanh chóng quay mũi về hướng Bắc. Tàu 674, 675 ở phía Tây và phía Bắc đảo tiếp ứng cho quân đổ bộ, sẵn sàng đánh chặn tàu đối phương từ phía ngoài. Lợi dụng thủy triều xuống thấp, tàu 673 khẩn cấp cho các chiến sĩ bí mật tiếp cận đảo.  

Đảo Song Tử Tây nửa đêm về sáng lặng lẽ. Sau khi 38 cán bộ, chiến sĩ Phân đội 1 bí mật bò sát mép đảo vào vị trí chiến đấu, Đội trưởng Quế hạ lệnh “nổ súng”. Một loạt đạn DKZ bắn thẳng vào lô cốt ụ súng đối phương. Những tiếng hô “xung phong” vang dậy khắp đảo. Hỏa lực từ tàu 673 tới tấp nã vào các mục tiêu. 

Bị tấn công bất ngờ, đối phương chống trả quyết liệt, đại liên từ các lô cốt bắn ra như mưa. B40, B41 của các chiến sĩ đặc công tập trung bịt họng các ổ đề kháng của đối phương và nhanh chóng đánh chiếm sở chỉ huy, làm chủ điện đài. 

Biên đội gồm các tàu 673, 674 và 675 lên đường giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa.
 Biên đội gồm các tàu 673, 674 và 675 lên đường giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa.

“Cuộc chiến đấu diễn ra rất ác liệt. Các chiến sĩ trẻ rất dũng cảm, thương vong không đáng kể. Đây là chiến công đầu tiên, khẳng định sức mạnh và tinh thần chiến đấu làm chủ vùng biển của Hải quân Việt Nam. Thừa thắng, các chiến sĩ tiếp cận các vị trí thuận lợi, dồn đối phương vào cuối đường giao thông hào, những tiếng loa gọi hàng vang lên.

Biết không thể cố thủ mãi trong hầm hào công sự, binh sĩ chế độ Sài Gòn đã giương cờ trắng xin hàng. Phía đường hào cuối đảo, những khuôn mặt phờ phạc dần xuất hiện, cầm cờ trắng, đưa tay lên đầu xin hàng vô điều kiện.

Đảo Trường Sa Lớn tháng 4/1975.
Đảo Trường Sa Lớn tháng 4/1975. 

Lá cờ Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam được chiến sĩ Lê Xuân Phát kéo lên đỉnh cột cờ trước bia chủ quyền, tung bay trên đảo Song Tử Tây. Lúc đó là 5h15 ngày 14/4/1975”, Tướng Năng kể lại. 

Song Tử Tây hiện được coi là đảo đẹp nhất, xanh nhất và lãng mạn nhất trong quần đảo Trường Sa. Nếu đảo Sơn Ca được coi là nơi có nhiều nước ngọt nhất, da bộ đội trắng nhất; đảo Trường Sa Lớn là “thủ phủ” hiện đại nhất thì Song Tử Tây là đảo xanh nhất, gần gũi, thân thiện nhất. Bởi ở đảo này, ngoài những công trình nhà ở được xây dựng vững chãi, còn phủ một màu xanh của cỏ cây, hoa lá.

Theo chân Trung tá Nguyễn Đức Độ, Chỉ huy trưởng, kiêm Chủ tịch xã Song Tử Tây những ngày lưu lại ở nơi đặc biệt này, các vị khách không chỉ xúc động trước nghĩa cử mến khách của bộ đội ở đây mà còn xúc động trước màu xanh của đảo. Nhiều câu chuyện kể về “sức sống xanh” từ bàn tay của các chiến sĩ trẻ tạo nên.

“Có chiến sĩ đã nhặt một mầm xanh từ biển trôi dạt vào mép đảo giữa đêm, đem về ươm trồng. Nhưng thật kỳ lạ là những mầm xanh ấy sống rất khỏe. Dường như nó đã quen với biển mặn và cát trắng ở đây. Anh nhìn kìa, giữa nắng gió mặn mòi, chúng tôi vẫn nuôi được bò, gà, vịt chẳng khác đất liền. Có thứ đất liền không trồng được như cây phong ba, bão táp thì ở đây trồng vô tư. Cỏ ở đảo chúng tôi cũng tốt hơn, xanh hơn các đảo khác”, Trung tá Độ cho hay.

Đi dưới hàng cây bàng quả vuông mát rượi, rảo bước dưới những cột điện chạy bằng sức gió quanh triền đảo, ngắm những con tàu tít tắp ngoài khơi xa, hòa mình cùng đàn bò đang gặm cỏ trên sân, cảm giác cảnh thanh bình ở nơi này thật thú vị, lạ lùng.

45 năm trước, Song Tử Tây là dải cát khô cằn đầy lông chim biển, nay Song Tử Tây là hòn đảo xanh giữa biển biếc của đại dương. Đó là màu xanh của khát vọng hòa bình mà cán bộ, chiến sĩ Vùng 4 Hải quân, những người lính “đầu đội trời, chân đạp san hô”, đang ngày đêm canh giữ cột mốc chủ quyền giữa ngàn khơi.

Đọc thêm