Vang mãi lời thề độc lập

(PLO) - Cách mạng Tháng Tám thành công mở đầu trang sử mới của dân tộc Việt Nam. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân và long trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”.
"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập
và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập”. 
Trong bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập!”. Và thay mặt toàn thể nhân dân Việt Nam, Người trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập ”. 
Đặc biệt cuối bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Giữa Ba Đình lộng gió Mùa thu, Lời thề Độc lập của cả dân tộc vang vọng núi sông và 70 qua, Lời thề Độc lập ấy vẫn còn vang lên trên đất nước này, nhắc nhở mỗi người dân đất Việt trước hoạ xâm lăng, trước sự đe doạ của kẻ thù, trước thiên nhiên khắc nghiệt và trước cả những khó khăn nội sinh để giữ vững non nước thái bình, thịnh trị, muôn dân, hạnh phúc, ấm no.
Lịch sử cho thấy, ngay từ tháng 9 năm 1945, bước ra từ đói nghèo tăm tối, vùng lên xoá bỏ xiềng gông, Nhà nước công nông non trẻ vừa ra đời, toàn thể dân tộc ta đã lại phải đối phó ngay với thù trong, giặc ngoài. Nạn đói, giặc dốt, âm mưu của bọn phản động và hoạ ngoại xâm đưa dân tộc ta đứng trước thế “ngàn cân treo sợi tóc”. 
Ở miền Nam, tiếng súng xâm lược của thực dân Pháp đã dội xuống đồng bào và ngày 23/9/1945 Nam bộ vùng lên kháng chiến, quyết đem “Tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải” để bảo vệ mảnh đất thiêng liêng nơi địa đầu của Tổ quốc. Và không phải chỉ có Nam bộ, theo tiếng gọi của non sông: “Nam bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý đó không bao giờ thay đổi”, đồng bào và chiến sĩ cả nước đã đứng lên cùng Nam bộ kháng chiến. 
Những đoàn quân Nam tiến với những đứa con ưu tú của trăm miền lần lượt lên đường chi viện cho miền Nam, cản bước và đẩy lùi quân thù trên các chiến tuyến. Bao người con của miền Bắc, miền Trung đã ngã xuống trên chiến trường Nam bộ trong những ngày đầu khói lửa, để giữ gìn nền độc lập vừa giành được của đất nước. 
"Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập”.
"Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng,
tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập”. 
Tiếp đó tháng 12/1946, trước âm mưu quyết cướp nước ta một lần nữa của thực dân Pháp; tình thế khẩn cấp buộc Đảng, Chính phủ ta phải có quyết sách kịp thời. Hội nghị bất thường mở rộng của Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại làng Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định phát động cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. 
Tối 19/12/1946, thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và “Toàn thể dân tộc Việt Nam lại quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. 
Lời thề Độc lập vang dội non sông, là lời hịch kêu gọi đồng bào toàn quốc: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”. 
Đảng ta và Hồ Chủ tịch đã tìm mọi cách để ngăn chặn chiến tranh, nhưng thực dân Pháp chủ trương gây chiến. Không còn con đường nào khác, chúng ta phải dùng chiến tranh chính nghĩa để chống lại chiến tranh phi nghĩa. Lời thề Độc lập vang dội non sông để toàn dân ta bước vào cuộc chiến đấu mới kiên quyết giữ gìn nền độc lập với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. 
Quân dân Thủ đô bắt đầu từ mùa Đông 1946 đã chiến đấu suốt 60 ngày đêm không nghỉ cùng quân dân cả nước giam chân thực dân Pháp trong các thành phố, tạo điều kiện cho cả nước bước vào cuộc trường kỳ kháng chiến 9 năm lâu dài và gian khổ. 
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh là lời hịch cứu nước, cứu Tổ quốc. Tinh thần, quyết tâm kháng chiến, bảo vệ nền độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được truyền đến toàn thể đồng bào, đồng chí, động viên, cổ vũ tinh thần yêu nước của nhân dân, tạo thành khối đoàn kết vững chắc với sức mạnh vô địch của nhân dân để làm nên chiến thắng.
“Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập”. Chúng ta đã từ bỏ Hà Nội “ngùn ngụt cháy sau lưng”, dời khỏi các thành phố và hẹn một ngày không xa đoàn quân tiến về giải phóng Thủ đô yêu quý. Và trong 9 năm ấy, toàn thể dân tộc Việt Nam đã đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để đi hết chiến thắng này đến chiến thắng khác, từ Chiến thắng Việt Bắc Thu Đông năm 1947, Chiến thắng Biên Giới năm 1950 đến Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, “rạng rỡ năm châu, chấn động địa cầu”.
Cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, nhưng Tổ quốc Việt Nam lại bị chia đôi. Lời thề Độc lập năm nào lại vang lên với tinh thần, ý chí, quyết tâm thống nhất Tổ quốc không gì lay chuyển được: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”.
Ngày 17/7/1966, Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam truyền đi lời kêu gọi chống Mỹ cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào, chiến sĩ cả nước và bè bạn quốc tế khắp năm châu, tiếp tục thể hiện ý chí, tinh thần quật cường của dân tộc Việt Nam trước âm mưu và thủ đoạn mới của kẻ thù, khi chúng hùng hổ và ngạo mạn, ồ ạt đưa quân xâm lược miền Nam, huy động hàng ngàn máy bay các loại, kể cả máy bay chiến lược B -52 hòng đưa miền Bắc quay về thời kỳ đồ đá. 
Trước vận mệnh của Tổ quốc bị đe doạ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đứng lên kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Người khẳng định: “Chúng có thể đưa 50 vạn quân, 1 triệu quân hoặc nhiều hơn nữa... Chúng có thể dùng hàng nghìn máy bay, tăng cường đánh phá miền Bắc. Nhưng chúng quyết không thể lay chuyển được chí khí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng... Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa; Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cổ vũ và huy động toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để chiến đấu, giành chiến thắng.
Và với ý chí, quyết tâm ấy, triệu triệu con người trên mảnh đất miền Nam “Thành đồng Tổ quốc” đã vùng lên trong cơn bão tố; “từ Trị - Thiên băng qua Tây Nguyên lan tới bưng biền triệu người bừng bừng, cùng Đà Nẵng với Huế chiến thắng khí thế sôi sục tràn về Sài Gòn, giờ tấn công sục sôi tim muôn người”. 
Và trên miền Bắc với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng giặc Mỹ xâm lược”, triệu triệu con người đã không tiếc tuổi xuân lên đường ra trận với khí thế “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, mà lòng phơi phới dậy tương lai”, để cuộc hành quân 30 năm không nghỉ của dân tộc đến đích cuối cùng; non song thu về một mối với chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975 chói ngời sắc đỏ.
Khi hai đầu Tổ quốc, kẻ thù rình rập xâm lược đất nước ta, lời thề Độc lập giữa Ba Đình mùa Thu năm ấy lại vang lên. Toàn thể dân tộc Việt Nam lại đoàn kết một lòng, đem tất cả tinh thần và lực lượng để chiến đấu, gìn giữ biên cương của Tổ quốc vì một nền hoà bình dài lâu của dân tộc. Và trong cuộc chiến đấu đó, chúng ta đã chiến thắng. 
Hôm nay, 70 mùa Thu đã đi qua, Tổ quốc đã sạch bóng thù. Nhưng lời thề Độc lập mùa Thu năm 1945 giữa Ba Đình rực nắng như vẫn vang đâu đây giữa đất trời, biển đảo, núi sông của Tổ quốc vì sự trường tồn của dân tộc. Lời thề nhắc nhở toàn thể dân tộc Việt Nam phải tiếp tục đem tất cả tinh thần và lực lượng để gìn giữ non sông gấm vóc này, để không hổ thẹn với tiên tổ và hãnh diện, tự hào với con cháu mai sau…

Đọc thêm