Dự thảo quy định mới về gửi đơn khởi kiện, trả lại đơn

(PLO) -Tòa án nhân dân tối cao đang dự thảo Nghị quyết hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13, Luật tố tụng hành chính số 93/2015/QH13.
Dự thảo quy định mới về gửi đơn khởi kiện, trả lại đơn

Có thể nộp đơn kiện qua email

Một quy định chưa từng có trong lịch sử tố tụng Việt Nam là về gửi, nhận đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng bằng phương tiện điện tử.

Dự thảo quy định, người khởi kiện, đương sự, người tham gia tố tụng khác thực hiện giao dịch điện tử với Tòa án phải có đủ các điều kiện sau: 

1- Có địa chỉ thư điện tử chính thức để gửi, nhận tài liệu, chứng cứ, văn bản tố tụng đến và đi từ Cổng thông tin điện tử của Tòa án; 

2- Có chữ ký điện tử được chứng thực bằng chứng thư điện tử đang còn hiệu lực do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp, công nhận; 

3- Thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử và hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao.

Người khởi kiện, đương sự, người tham gia tố tụng khác thực hiện giao dịch điện tử với Tòa án phải sử dụng chữ ký điện tử được ký bằng chứng thư điện tử do cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực cấp, công nhận. 

Tòa án khi thực hiện giao dịch điện tử với người khởi kiện, đương sự, người tham gia tố tụng khác phải sử dụng chữ ký điện tử được ký bằng chứng thư điện tử do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.

Theo dự thảo, người khởi kiện, đương sự, người tham gia tố tụng khác được thực hiện các giao dịch điện tử 24 giờ trong ngày và 7 ngày trong tuần, bao gồm cả ngày nghỉ, ngày lễ và ngày Tết.

Sau khi nhận được thông điệp dữ liệu điện tử, Cổng thông tin điện tử của Tòa án tự động gửi thông báo giao dịch điện tử thành công; tự động gửi thông báo đã nhận thông điệp dữ liệu điện tử theo quy định của pháp luật tố tụng đến địa chỉ điện tử của người khởi kiện, đương sự, người tham gia tố tụng khác.

Ngày gửi thông điệp dữ liệu điện tử của người khởi kiện, đương sự, người tham gia tố tụng khác được xác định là ngày Cổng thông tin điện tử của Tòa án tự động thông báo giao dịch điện tử thành công, trừ trường hợp hệ thống hạ tầng kỹ thuật của Cổng thông tin điện tử gặp sự cố thì ngày gửi, nhận thông điệp dữ liệu điện tử được xác định là ngày thực tế thông điệp dữ liệu điện tử đó được gửi vào hệ thống của người nhận.

Dự thảo nêu rõ, TAND tối cao thông báo trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao danh sách các Tòa án thực hiện giao dịch điện tử trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính.

Người khởi kiện, đương sự, người tham gia tố tụng khác thực hiện đăng ký giao dịch điện tử với Tòa án bằng cách truy cập vào Cổng thông tin điện tử của Tòa án, điền đầy đủ thông tin, ký điện tử và gửi đến Cổng thông tin điện tử.

Sau khi nhận được hồ sơ đăng ký, Cổng thông tin điện tử gửi thông báo về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận đăng ký giao dịch điện tử cho họ chậm nhất 30 phút sau khi nhận được hồ sơ đăng ký giao dịch.

Trường hợp không được Tòa án chấp nhận, người khởi kiện, đương sự, người tham gia tố tụng khác căn cứ thông báo của Tòa án để hoàn chỉnh thông tin đăng ký hoặc liên hệ với Tòa án để được hướng dẫn, hỗ trợ.

Hình minh họa
Hình minh họa

Trả lại đơn, và khởi kiện lại

Cũng trong bản dự thảo này, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 của Bộ luật tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi kiện, hậu quả của việc trả lại đơn khởi kiện.

Theo dự thảo, Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp người khởi kiện không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự quy định tại điểm a khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) là người không có khả năng tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng dân sự theo quy định tại Điều 69 của BLTTDS.

Bên cạnh đó, Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện với trường hợp chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật được hướng dẫn như sau:

Khi xác định điều kiện khởi kiện vụ án dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất thì đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa tiến hành hòa giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp theo quy định tại Điều 202 của Luật Đất đai năm 2013, thì được xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 BLTTDS.

Đối với tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất như: tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,… thì thủ tục hòa giải tại UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi kiện vụ án.

Việc trả lại đơn khởi kiện khi vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án là trường hợp theo quy định của pháp luật vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan, tổ chức khác.

Khoản 1 Điều 192 BLTTDS không quy định căn cứ trả lại đơn khởi kiện vì lý do thời hiệu khởi kiện đã hết, vì vậy, Tòa án không được lấy lý do thời hiệu khởi kiện đã hết để trả lại đơn khởi kiện.

Trường hợp trước đây, Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện vì lý do thời hiệu khởi kiện đã hết mà đương sự có yêu cầu khởi kiện lại, thì Tòa án thụ lý vụ việc và đương sự phải nộp tiền tạm ứng án phí nếu không thuộc diện được miễn án phí theo quy định của pháp luật.

Dự thảo cũng hướng dẫn, người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 192, điểm c khoản 1 Điều 217 của BLTTDS và các văn bản pháp luật có quy định.

Đối với những vụ án dân sự mà trước ngày 1/1/2017, Tòa án đã đình chỉ giải quyết vụ án vì lý do "thời hiệu khởi kiện đã hết" nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 623, điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 thì thời hiệu khởi kiện vụ án đó vẫn còn.

Trường hợp này người khởi kiện có quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 và điểm d khoản 3 Điều 192 của Bộ luật tố tụng dân sự. 

Đối với những vụ án dân sự yêu cầu chia tài sản chung là di sản thừa kế đã hết thời hiệu mà trước ngày 01/01/2017 Tòa án đã đình chỉ giải quyết vụ án vì lý do chưa đủ điều kiện khởi kiện nay người khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế thì Tòa án xem xét, thụ lý theo thủ tục chung.

Theo Khoản 3 Điều 192 BLTTDS, đương sự có quyền nộp đơn khởi kiện lại trong các trường hợp sau đây: 

a- Người khởi kiện đã có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;

b- Yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà trước đó Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu mà theo quy định của pháp luật được quyền khởi kiện lại;

c- Đã có đủ điều kiện khởi kiện;

d- Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật.

Điểm c khoản 1 Điều 217 của BLTTDS quy định, người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện hoặc nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, trừ trường hợp họ đề nghị xét xử vắng mặt hoặc vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan.

Đọc thêm