Có thể chấm dứt hợp đồng lao động không cần lý do?

(PLO) - Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (HĐLĐ) của người lao động (NLĐ) là một trong những nội dung được Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐTBXH) nhấn mạnh trong quá trình đề xuất sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động (BLLĐ). Đây cũng là một trong những nội dung còn đang gây ra nhiều tranh cãi.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Điều 37 của BLLĐ 2012 quy định quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của NLĐ phải gồm 2 điều kiện: thứ nhất, có lý do được quy định bảo luật; thứ hai, tuân thủ thời hạn báo trước. Riêng đối với người lao động làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn thì chỉ cần báo trước 45 ngày mà không cần lý do.

Đánh giá về 3 năm thực hiện BLLĐ, Bộ LĐTBXH cho rằng, đây là một quy định còn chứa đựng hạn chế trong chế định hợp đồng của BLLĐ. Vì thế, các chuyên gia về pháp luật lao động đề nghị quy định NLĐ làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ cũng phải có lý do chính đáng và phải báo trước cho người sử dụng lao động (NSDLĐ) một khoảng thời gian theo quy định.

Theo các chuyên gia, BLLĐ quy định NLĐ làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn thì có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ và chỉ phải báo trước cho NLĐ ít nhất 45 ngày. Quy định này chưa đảm bảo sự bình đẳng đối với những NLĐ làm việc theo 2 loại hợp đồng còn lại và đối với cả NSDLĐ (khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ vừa phải có lý do chính đáng, vừa phải báo trước ít nhất 1 khoảng thời gian). Mặt khác, NLĐ gần đến tuổi nghỉ hưu đang lợi dụng quy định này để đơn phương chấm dứt HĐLĐ, nhận trợ cấp thôi việc và sau đó chờ đủ tuổi để hưởng hưu trí.  

Quá trình soạn thảo BLLĐ sửa đổi, liên quan đến quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NLĐ, có nhiều quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất là giữ như quy định hiện hành, tức là muốn đơn phương chấm dứt HĐLĐ thì phải có lý do và thời hạn báo trước. 

Như vậy, vẫn giữ nguyên theo quy định tại khoản 1 Điều 37 BLLĐ 2012, tức là NLĐ làm việc theo HĐLĐ xác định thời hạn, HĐLĐ theo mùa vụ có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ trước thời hạn trong những trường hợp sau đây: a, Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thỏa thuận trong HĐLĐ; b, Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong HĐLĐ; c, Bị ngược đãi, quấy rối tình dục, cưỡng bức lao động; d, Bản thân và gia đình có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện HĐLĐ; đ, Được bầu làm nhiệm vụ chuyên trách ở cơ quan dân cứ hoặc được bổ nhiệm giữ chức vụ trong bộ máy nhà nước; e, Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền; g, NLĐ bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 90 ngày liên tục đối với người làm việc theo HĐLĐ xác định thời hạn và một phần tư thời hạn hợp đồng đối với người làm việc theo HĐLĐ theo mùa vụ mà khả năng lao động chưa được hồi phục.

Khoản 2 Điều 37 quy định,  khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ theo quy định tại khoản 1 Điều này, NLĐ phải báo cho NSDLĐ biết trước ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 Điều này; ít nhất 30 ngày nếu là HĐLĐ xác định thời hạn, ít nhất 03 ngày làm việc nếu là HĐLĐ theo mùa vụ đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này. Đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều này thời hạn báo trước cho NSDLĐ được thực hiện theo thời hạn quy định tại Điều 156 của Bộ luật này. NLĐ làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ, nhưng phải báo cho NSDLĐ biết trước ít nhất 45 ngày, trừ trường hợp quy định tại Điều 156 của Bộ luật này.

Trong khi đó, luồng ý kiến thứ hai đề nghị bỏ lý do, chỉ cần yêu cầu về thời hạn báo trước. Các ý kiến này cho rằng, bãi bỏ quy định này để dảm bảo quyền được lựa chọn việc làm tốt hơn cho NLĐ và phòng chống cưỡng bước lao động, theo đó bất cứ khi nào NLĐ cảm thấy không hài lòng với việc làm hiện tại hoặc tìm kiếm được việc làm tốt hơn ở doanh nghiệp khác thì họ sẽ thực hiện quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ mà không cần có lý do, chỉ cần báo trước. Đồng thời, quy định báo trước một thời hạn nhất định để doanh nghiệp biết, chủ động trong việc tìm kiếm lao động thay thế.

Theo đó, NLĐ có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ bất cứ thời điểm nào với điều kiện phải báo trước: 45 ngày đối với NLĐ làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn; 30 ngày đối với NLĐ làm việc theo HĐLĐ xác định thời hạn; 05 ngày làm việc đối với NLĐ làm việc theo HĐLĐ theo mùa vụ.

NLĐ không cần báo trước theo quy định trên trong những trường hợp sau: NLĐ không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc đã thống nhất giữa các bên; NLĐ không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn như đã thống nhất giữa các bên; NLĐ bị ngược đãi, quấy rối tính dục hoặc cưỡng bức lao động; Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền.

Đọc thêm