“Người khởi kiện không có quyền khởi kiện” là ai?

(PLO) - Hội đồng Thẩm phán TANDTC vừa có Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) 2015 về trả lại đơn khởi kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án, trong đó xác định rõ về “người khởi kiện không có quyền khởi kiện” theo quy định tại BLTTDS 2015.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Xác định “người khởi kiện không có quyền khởi kiện”

Điều 192 BLTTDS 2015 về “Trả lại đơn khởi kiện, hậu quả của việc trả lại đơn khởi kiện” tại điểm a khoản 1 quy định, thẩm phán trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp sau đây: “Người khởi kiện không có quyền khởi kiện theo quy định tại Điều 186 và Điều 187 của Bộ luật này hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự”.

Theo hướng dẫn tại Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP, người khởi kiện không có quyền khởi kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện khi cơ quan, tổ chức, cá nhân không thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều 186, Điều 187 BLTTDS 2015. Cụ thể, cơ quan, tổ chức, cá nhân không thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều 186 BLTTDS 2015 là trường hợp người làm đơn khởi kiện không nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chính mình hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà mình là người đại diện hợp pháp.

Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều 187 BLTTDS 2015 là trường hợp người làm đơn khởi kiện không thuộc trường hợp theo quy định của pháp luật có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước. Ví dụ, tổ chức A (không phải là tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo quy định tại khoản 1 Điều 27 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010) cho rằng Công ty B bán hàng hóa không đúng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, chất lượng, số lượng, tính năng, công dụng như đã công bố, niêm yết, quảng cáo hoặc cam kết dẫn đến việc chị C (người tiêu dùng) mua sử dụng bị thiệt hại nên Tổ chức A làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty B bồi thường thiệt hại cho chị C. Trường hợp này, Tổ chức A không có quyền khởi kiện vụ án bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng theo quy định tại khoản 3 Điều 187 BLTTDS năm 2015.

Cũng theo hướng dẫn của Nghị quyết này,  người khởi kiện không có quyền khởi kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện khi yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân không cần xác minh, thu thập chứng cứ cũng đủ căn cứ kết luận là không có việc quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm hoặc cần bảo vệ. Ví dụ, cụ An chết năm 2010, để lại di sản là căn nhà X nhưng không có di chúc và không có thỏa thuận khác. Cụ A có con là ông B (còn sống, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và không thuộc trường hợp không được quyền hưởng di sản theo Điều 621 BLDS 2015). Trường hợp này, theo quy định của pháp luật về thừa kế thì anh C là con của ông B không có quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản của cụ An theo pháp luật.

“Chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật” khi nào?

Điểm b khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015 cũng quy định, Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp “Chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật”. Chưa có đủ điều kiện khởi kiện là trường hợp pháp luật có quy định về các điều kiện khởi kiện nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó.

Để thực hiện quy định này, Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP hướng dẫn, chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật là trường hợp pháp luật tố tụng dân sự, pháp luật khác có quy định về các điều kiện để cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó.

Ví dụ, Công ty A là người sử dụng lao động ký hợp đồng với ông B, trong hợp đồng ghi rõ ông B sẽ được Công ty cho đi học nghề 1 năm, đồng thời ông B có nghĩa vụ làm việc tại Công ty ít nhất là 05 năm kể từ thời điểm học xong. Tuy nhiên, sau khi học xong ông B chỉ làm việc ở Công ty A 2 năm. Công ty A khởi kiện ông B ra Tòa án buộc ông B hoàn trả chi phí đào tạo học nghề khi chưa tiến hành thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động. Trường hợp này, theo quy định tại Điều 201 BLLĐ 2012, khoản 1 Điều 32 BLTTDS 2015 thì Công ty A chưa đủ điều kiện khởi kiện vụ án.

Đối với tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất mà chưa được hòa giải tại UBND xã, phường, thị trấn nơi có tranh chấp theo quy định tại Điều 202 Luật Đất đai năm 2013 thì được xác định là chưa có đủ điều kiện khởi kiện quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192 BLTTDS 2015.

Đối với tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất như tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp về quyền thừa kế quyền sử dụng đất, chia tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất,..., thì thủ tục hòa giải tại UBND xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp không phải là điều kiện khởi kiện vụ án.

Đọc thêm