Tội cho vay lãi nặng: Đề xuất áp dụng hình phạt bổ sung cao nhất theo Bộ luật Hình sự

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Hội đồng Thẩm phán, TAND Tối cao vừa trình Dự thảo Nghị quyết Hướng dẫn áp dụng Điều 201 của Bộ luật Hình sự (BLHS) và việc xét xử vụ án cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Xác định số tiền thu lợi bất chính như nào? 

Theo Dự thảo Nghị quyết, đối với việc xác định số tiền thu lợi bất chính trong một số trường hợp cụ thể thì trên thực tế có hai trường hợp xảy ra. Trường hợp 1, giao dịch dân sự chưa hết thời hạn mà bị phát hiện thì tiền thu lợi bất chính được xác định theo số tiền mà người vay thực tế đã trả. 

Ví dụ 1: Nguyễn Văn A cho Nguyễn Văn B vay 300 triệu đồng trong thời gian 02 tháng, tiền lãi là 90 triệu đồng được trả làm 2 đợt cho đến khi hết hạn hợp đồng. Tuy nhiên, khi hết 1 tháng, B mới trả được 45 triệu thì hành vi cho vay lãi nặng bị cơ quan có thẩm quyền phát hiện và ngăn chặn. Trường hợp này, tiền thu lợi bất chính được xác định là số tiền 45 triệu trừ đi số tiền lãi 5 triệu (mức lãi suất 20%/năm theo quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS). 

Ví dụ 2: Nguyễn Văn A cho Nguyễn Văn B vay 300 triệu đồng, thời hạn vay là 02 tháng, tiền lãi là 80 triệu đồng. Tuy nhiên, thực tế A giao cho B 220 triệu đồng tiền vay, còn 80 triệu đồng A đã trừ trước tiền lãi. Khi hết thời hạn 1 tháng thì bị cơ quan có thẩm quyền phát hiện và ngăn chặn. Trường hợp này, số tiền thu lợi bất chính được xác định là 80 triệu trừ đi số tiền lãi 5 triệu (mức lãi suất 20%/năm theo quy định của BLDS).

Trường hợp hai, giao dịch dân sự đã hết hạn nhưng người vay chưa trả được tiền lãi hoặc mới trả được một phần tiền lãi thì số tiền thu lợi bất chính vẫn được xác định trên cơ sở của cả thời gian của giao dịch dân sự.

Những trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự

Về truy cứu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp cụ thể, theo Dự thảo Nghị quyết, trường hợp người thực hiện hành vi cho vay lãi nặng thu phí của người vay (như phí hợp đồng, phí tư vấn, phí dịch vụ, phí liên lạc...) thì khoản tiền này được cộng với tiền lãi để xác định lãi suất và tiền thu lợi bất chính khi xem xét trách nhiệm hình sự. 

Trường hợp người môi giới (trung gian) câu kết với người cho vay thu phí dịch vụ của người vay để cùng thu lợi bất chính thì khoản tiền này được cộng với tiền lãi để tính lãi suất và tiền thu lợi bất chính khi xem xét trách nhiệm hình sự.

 Trường hợp một người thực hiện nhiều lần hành vi cho vay lãi nặng, mà tổng số tiền thu lợi bất chính của các lần phạm tội từ 100 triệu đồng trở lên, nếu các lần phạm tội đều chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thì ngoài việc bị áp dụng khung hình phạt tương ứng với trị giá tài sản chiếm đoạt, họ còn bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của BLHS.

Trường hợp người trung gian thực hiện hành vi tư vấn, môi giới... hoặc có hành vi khác tham gia vào quá trình cho vay lãi nặng, đòi nợ (như dụ dỗ, lôi kéo, ép buộc, góp vốn...) mà biết rõ để thực hiện việc cho vay lãi nặng mà vẫn thực hiện thì bị xử lý hình sự với vai trò là đồng phạm trong vụ án cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự. 

Trường hợp người phạm tội thực hiện nhiều hành vi khác nhau liên quan đến việc đòi nợ (như ép buộc lấy tài sản, đánh người vay...) thì tùy từng trường hợp họ phải xử lý trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng. 

Ví dụ: A đánh B gãy tay để đòi lại số tiền đã cho vay lãi nặng. A phạm tội cố ý gây thương tích và tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.

Về xử lý khoản tiền thu lợi bất chính mà người phạm tội thu được từ việc cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn: Tiền thu lợi bất chính mà người phạm tội thu được từ việc cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự là khoản tiền người phạm tội chiếm đoạt bất hợp pháp, được trả lại cho người vay, trừ trường hợp người vay sử dụng tiền vay vào mục đích bất hợp pháp (như đánh bạc, mua bán trái phép chất ma túy...) thì khoản tiền thu lợi bất chính bị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Về việc xử lý khoản tiền người phạm tội dùng để cho vay và khoản tiền lãi theo quy định của BLDA thì khoản tiền người phạm tội dùng để cho vay (tiền gốc) là công cụ, phương tiện phạm tội, bị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước. Khoản tiền lãi theo quy định của BLDS tương ứng với mức lãi suất 20%/năm là tiền phát sinh từ tội phạm, bị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Theo Dự thảo Nghị quyết, trong vụ hình sự mà người cho vay tiền bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự theo Điều 201 của BLHS thì người vay tiền tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Về nguyên tắc xử lý đối với người phạm tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, dự thảo nghị quyết đưa ra ba nguyên tắc. Cụ thể, phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự. Cần xem xét, cân nhắc áp dụng hình phạt chính là tiền đối với người thực hiện hành vi phạm tội. Trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc nghề nghiệp, công việc để phạm tội thì phải xem xét áp dụng tình tiết tăng nặng lợi dụng chức vụ, quyền hạn tại điểm c khoản 1 Điều 52 của BLHS để xử lý trách nhiệm hình sự. Không những thế, sẽ áp dụng các hình phạt bổ sung cao nhất theo quy định của BLHS.

Đọc thêm