Chùa Thập Tháp ở huyện An Nhơn – Bình Định được nhiều du khách và Phật tử biết đến bởi chẳng những đây là Di sản văn hóa cấp Quốc gia, mà nó còn là nơi có rất nhiều sự tích . Trong đó có câu chuyện truyền kỳ về hạt lúa mà cổ tích Việt Nam đã ghi nhận…
|
Cổng chùa Thập Tháp |
Thập Tháp Di Đà tự
Thập Tháp Di Đà tự còn gọi là chùa Thập Tháp, nằm ở phía Bắc thành Đồ Bàn (tức thành Hoàng Đế, thành Bình Định), nay thuộc địa phận thôn Vạn Thuận, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn – Bình Định, cách thành phố Quy Nhơn gần 30 km và cách Quốc lộ 1A khoảng 100m. Chùa Thập Tháp thuộc vào hàng chùa chiền ra đời sớm ở Đàng Trong, được hình thành từ năm 1677.
Mười ngôi tháp yểm hậu của người Chăm trên khu gò phía Bắc thành Đồ Bàn đã gãy đổ nhưng còn in dấu trong địa danh xứ sở này, tương truyền do thiền sư Nguyên Thiều – người sáng lập chùa dùng làm tự danh. Chùa Thập Tháp nằm trên đồi Long Bích, mặt hướng về núi Mò O, là vùng Lãng Uyển của vua chúa Chiêm Thành xưa. Nay hãy còn các giếng vuông và hồ sen xây bằng đá ong to đặc trưng trong xây dựng của người Chămpa.
Thiền sư Nguyên Thiều (1648 – 1715) là vị tổ thứ 33, thiền phái Lâm Tế Chánh Tông, dừng chân nơi đây trên đường truyền đạo, ngụ trong một ngôi lều cỏ đơn sơ. Bảy năm sau, 1683, Thiền sư Nguyên Thiều huy động bổn đạo dùng gạch đá của 10 ngôi tháp đổ của người Chăm dựng ngôi chùa Thập Tháp thay lều cỏ cũ nát.
Đến nay, qua nhiều lần trùng tu, chùa Thập Tháp vẫn giữ được không gian riêng vốn được tạo bởi lối kiến trúc cổ. hai trụ biểu vuông cao lớn có hai tượng sư tử ngồi uy nghi làm cổng, nối một vòng cung có hai chữ Thập Tháp. Câu đối được đề cả hai mặt trong ngoài trụ biểu do hòa thượng Bích Liên ngẫu hứng sáng tác trong một đêm trăng ngắm hoa sen, tâm trí khoáng đạt mênh mang.
Phía trước dạt dào cùng trời đất bao la: “Nguyệt hạ bất xao kim tỏa đoạn/ Sơn tiền chỉ nhậm bạch vân phong” (Mây trắng lững lờ vươn núi biếc/ Khóa vàng buông mở dưới trăng trong). Phía sau ngẫm ngợi về không gian đạo pháp: “Nhất cảnh địa đăng A Bệ Bạt/ Lục thời thiên vũ Mạn Đà La” (Một nẻo vị lên A Bệ Bạt/ Sáu thời trời rưới Mạn Đà La). Bức hoành phi “Sắc tứ Thập Tháp Di Đà tự” treo giữa cửa chính Chính điện là do chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725) sắc ban, hòa thượng Tổ Ấn – Mật Hoằng trùng khắc lại vào năm 1821, Minh Mạng thứ nhất. Đợt trùng tu 1995 – 1999, thượng tọa Truyền Như đã cúng hai bức hoành “Phật nhật tăng huy” và “Pháp luân thường chuyển”.
|
Một góc chùa Thập Tháp |
Chuông trống to lớn được đặt ở hai đầu hành lang. Đại Hồng Chung ra đời từ năm 1893 (Thành Thái thứ 5), do hòa thượng Chơn Châu – Vạn Thành đúc tạo. Đại Hồng Chung xưa ở chùa Thập Tháp rất lớn, gấp đôi Đại Hồng Chung hiện tại, mỗi lúc sư cụ thỉnh, tiếng vang 3 huyện. Nhưng trong loạn lạc của chiến tranh, nông dân lật đổ phong kiến, người đương thời khiêng chuông qua sông, nặng quá thả rơi xuống vực Bến Gỗ. Tương truyền, ngày rằm, mùng một, tiếng chuông còn ngân nga lan tỏa cả một quãng sông dài. Những ai tích thiện lâu ngày, dọn mình nghiêm cẩn, có thể có duyên với việc nghe hồi chuông giải tỏa phiền não.
Chùa Thập Tháp là nơi hiện tồn nhiều cổ vật giá trị. Các tượng Phật, Bồ Tát, A La hán, Chuông, Trống, Khánh, Bảng, Mõ, hoành phi, liễn đối, ngai thờ, các bài Ký minh, Chí… đều có lịch sử lâu đời, lưu truyền qua bao thế kỷ. Nhà chùa còn giữ 2.000 bản khắc gỗ dùng in kinh. Di Đà sớ sao, Kim Cang trực sớ, Pháp hoa khóa chú… là những bộ kinh còn trong ván khắc. Bộ Địa Tạng kinh do Tổng trấn Hà Tiên Mạc Thiên Tứ cúng dường còn được 1.200 quyển gồm Kinh, Luật, Luận và Ngữ Lục
Truyền kỳ Hạt lúa khổng lồ
Trong quá trình viếng chùa, chúng tôi được nhà sư Mật Hạnh kể cho nghe nhiều câu chuyện ly kì xung quanh chùa Thập Tháp, mà mở đầu là chuyện Hạt lúa khổng lồ. Đây là hạt lúa mà cổ tích Việt Nam đã ghi nhận.
Tương truyền, sau khi xây dựng chùa Thập Tháp, Thiền sư Nguyên Thiều ngày càng thu nhận nhiều đệ tử về đây quy y cửa Phật. “Có thực mới vực được đạo”, để các đệ tử nhà chùa có lương thực sinh sống hàng ngày, đủ sức khỏe đi hành đạo, Thiền sư Nguyên thiều mang về từ Trung Quốc một hạt lúa giống khổng lồ tự động từ nhà chùa lăn ra ngoài đồng. Không cần bón phân, không cần chăm sóc, thời gian trôi qua, hạt giống tự nảy mầm rồi lớn lên vùn vụt, rồi trổ bông, đơm gié.
|
Ruộng lúa trước chùa Thập Tháp |
Đến mùa hạ thì lúa vừa chín tới. Mỗi vụ, năng suất của hạt giống lúa khổng lồ không cho nhiều, chỉ vừa đủ cung ứng lương thực cho các sư trong chùa và thừa ra một ít để nhà chùa bố thí cho những người dân nghèo khổ sinh sống quanh vùng. Những hạt lúa được sinh ra cũng khổng lồ như hạt giống ban đầu. Mỗi người chỉ cần một hạt lúa là đủ lương thực ăn cho cả tháng trời. Chất lượng gạo rất tốt, bóc vỏ ra là thấy hạt gạo trắng tinh, nấu lên có mùi thơm dịu như nếp tháng 10. Đến khi lúa chín, các nhà sư cũng không phải còng lưng ra gặt rồi kĩu kịt gánh lúa về chùa như nông dân bây giờ. Các nhà sư chỉ cần quét dọn sân chùa thật sạch sẽ, tinh tươm để đón những hạt lúa từ ngoài đồng tự động lăn về.
Thấy hạt lúa nhà chùa quá huyền nhiệm, đến vụ lúa chín, nhiều kẻ tham lam trong vùng đang đêm kéo ra ruộng chùa trộm vài hạt vác về nhà. Về đến nhà kẻ tham lam, hạt giống lúa liền mất đi tính tự lăn ra đồng, sinh trưởng, tự trổ bông đơm gié và khi chín tự lăn về nhà như ở ruộng nhà chùa. Đến vụ, những kẻ tham lam kia phải khiêng giống ra thả ngoài ruộng rồi chờ trong hi vọng sẽ giàu to vì mai này lúa sẽ vào đầy bồ.
Nhưng điều ấy không bao giờ xảy ra, hạt giống của nhà chùa trong ruộng kẻ tham lam cứ trơ ra như hòn đá tảng rồi cứ thối dần trong mưa nắng. Thậm chí, những kẻ giàu có trong vùng nổi máu tham, giả làm kẻ bần hàn đến xin nhà chùa bố thí, vác được hạt lúa về đến nhà mướt mồ hôi nhưng khi vừa đặt xuống sàn, chua kịp mừng rỡ thì hạt lúa tự nhiên biến thành tro bụi bay vào trong gió. Vì thế, lúa của nhà chùa chỉ có các nhà sư trồng để tự cung ứng chứ không truyền ra bên ngoài được.
Trong vụ lúa chín năm ấy, một nhà sư được giao trách nhiệm quét dọn sạch sẽ sân chùa Thập Tháp để nghinh đón những hạt lúa lăn về bỗng lơ là, tắc trách. Khi những hạt lúa lăn từ ngoài đồng về, thấy sân chưa được quét dọn sạch sẽ, toàn bộ những hạt lúa nổi cơn hờn dỗi lăn ra khỏi chùa.
Nhà sư trẻ vừa sợ không gánh nổi trách nhiệm, vừa tức giận các hạt lúa liền đuổi theo dùng cán chổi quất túi bụi vào những hạt lúa, vừa đập vừa quát tháo cho hả giận. Đến khi cơn tam bành lắng dịu, nhìn lại thì nhà sư trẻ thấy cả những hạt lúa chưa bị “đòn” cũng tự động nát vụn, những mảnh gạo đổ trắng từ sân chùa ra đến đường đi.
Khi ấy, Thiền sư Nguyên Thiều bước ra, không một lời quở trách mà lại nhẹ nhàng thuyết giảng sâu sắc với nụ cười độ lượng về lẽ sinh diệt, chân tướng và giả tướng: “Không phải lỗi tại con. Vạn vật hễ duyên mãn thì sanh, duyên tàn thì diệt. Những gì mình thấy ở trước mặt không phải là thực thể mà là giả tướng. Thấy đó không phải là thật có, không còn thấy đó không phải là thật không. Hãy đi gọi người đem thúng đến xúc gạo!”. Từ ấy giống lúa mất. Nhà chùa giữ lại một số vỏ lúa này rất trân trọng.
Nhà sư Mật Hạnh nói: “Năm 11 tuổi, khi tôi mới vào quy y tại chùa Thập Tháp đã được nghe ngài Huệ Chiếu kể cho nghe chuyện Hạt lúa khổng lồ rồi. Khi quân Pháp chiếm đóng Bình Định, nghe dân gian truyền tụng tại chùa Thập Tháp có một vỏ lúa to lớn lạ thường, liền rủ nhau đến xem. Không tin vào mắt mình, người Pháp ngỡ ngàng thán phục rồi nổi máu thực dân có ý chiếm đoạt. Nhưng khi họ lấy tay đụng đến, vỏ lúa lập tức tan tành thành bụi trấu bay vung vãi vào mặt bọn thực dân rồi bay về trời. Từ đó, hạt lúa khổng lồ ở chùa Thập Tháp chỉ còn trong những chuyện kể mà thôi!”.
Phi Vũ