Chiêm bái đền Pháp Độ - Di tích lịch sử cấp quốc gia thờ thủy tổ họ Trần xứ Nghệ

(PLVN) - Đền Pháp Độ tọa lạc tại trung tâm thôn Đan Trung, xã Diễn Thắng, huyện Diễn Châu. Đền hướng về phía mặt trời mọc, có núi Mã Phong làm tiền án, phía sau là sông suối làm hậu chẩm… Đền là nơi thờ Tướng công Trần Pháp Độ (húy Trần Quốc Duy), là con trai của Tả tướng quốc Nguyên Huân- Trần Nguyên Hãn. Ngôi đền thiêng đã công nhận Di tích được di tích lịch sử cấp Quốc gia từ năm 1997. 
Vẻ cổ kính, linh thiêng của đền Pháp Độ.
Vẻ cổ kính, linh thiêng của đền Pháp Độ.

Ngôi đền thờ thủy tổ họ Trần xứ Nghệ là di tích lịch sử cấp quốc gia

Từ thành phố Vinh của tỉnh Nghệ An xuối theo hướng Bắc 40km, đền Pháp Độ tọa lạc tại thôn Đan Trung, xã Diễn Thắng, huyện Diễn Châu. Đan Trung là vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi có nhiều di tích, danh thắng nổi tiếng với những tên tuổi lớn.

Đền được xây dựng từ cuối thế kỷ XVI ở thôn Phú Hữu. Đến năm 1679 được chuyển về thôn Đan Trung như ngày nay. Vị thần tổ được thờ chính ở đây là Tướng công Trần Pháp Độ (húy Quốc Duy), là con trai đầu của Tả tướng quốc Nguyên Huân Trần Nguyên Hãn.

Trần Quốc Duy không chỉ là vị thủy tổ của họ Trần ở vùng Nghệ Tĩnh mà còn là vị “Thành Hoàng bản thổ” của nhân dân trong tổng Thái Xá, người có công chiêu dân, lập ấp, khai phá nhiều vùng hoang vu thành đồng ruộng, mở mang nghề nghiệp, xây dựng nên các làng Phú Hữu, Trường Lai, Thanh Xá, Nội Đồng, Nội Hạp… Trải qua các triều đại phong kiến Việt Nam, Đền Pháp Độ Trần Quốc Duy luôn được vua ban sắc phong: “Hách trạc tướng công hộ quốc tỷ dân, dực bảo trung hưng trung đẳng thần”.

Theo sử sách, tướng công Trần Pháp Độ làm quan dưới triều Lê, từng giữ chức Thiết chế lễ tướng công. Năm Hồng Đức thứ nhất (1470), dưới triều vua Lê Thánh Tông, ông xin hưu quan, đưa vợ là bà Lê Thị Từ Quang cùng ba con trai là Trần Công Sủng, Trần Đạo Tín và Trần Thiện Tính về ở Tống Sơn, nay thuộc huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa.

Chính điện đền Pháp Độ (ảnh Truyền hình Nghệ An).
Chính điện đền Pháp Độ (ảnh Truyền hình Nghệ An). 

Sáu năm sau, ông để bà Từ Quang và con thứ Trần Đạo Tín ở lại Tống Sơn, còn ông và 2 con Trần Công Sủng, Trần Thiện Tính đi vào Nghệ An. Ông chọn chùa Liên Hoa, làng Phì Cam để ở, làm nghề Thuần danh nội đạo. Sau khi ổn định cuộc sống, ông đưa con trưởng Trần Công Sủng trở lại định cư tại chùa Sải, thôn Kim Cốc, xã Mai Lâm, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Sau đó, ông vào Nghệ An cùng con út Trần Thiện Tính tổ chức khai dân, lập xứ Nương Mao, nay là vùng đất thuộc các xã Vĩnh Thành, Nhân Thành, Hợp Thành, huyện Yên Thành và một số xã thuộc huyện Diễn Châu (giáp với huyện Yên Thành).

Trần Pháp Độ không chỉ là vị thủy tổ của họ Trần ở vùng Nghệ Tĩnh mà còn là vị “Thành Hoàng bản thổ” của nhân dân trong tổng Thái Xá, người có công chiêu dân, lập ấp, khai phá nhiều vùng hoang vu thành đồng ruộng, mở mang nghề nghiệp, xây dựng nên các làng Phú Hữu, Trường Lai, Thanh Xá, Nội Đồng, Nội Hạp…

Đền Pháp Độ đã được vua ban sắc phong: “Hách trạc tướng công hộ quốc tỷ dân, dực bảo trung hưng trung đẳng thần”. Năm Khải Định thứ 2 (1917), đền được sắc phong “Pháp Độ Trung đẳng thần”. Hiện mộ Tổ Trần Pháp Độ táng tại xứ Tường Lai, Hào Kiệt, nay là xã Nhân Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.

Đỉnh nóc đền với bức: “Lưỡng long chầu nguyệt” kèm theo 3 chữ “Tối Linh Từ" (ảnh Truyền hình Nghệ An).
Đỉnh nóc đền với bức: “Lưỡng long chầu nguyệt” kèm theo 3 chữ “Tối Linh Từ" (ảnh Truyền hình Nghệ An).  

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đền Pháp Độ là căn cứ Cách mạng quan trọng. Ngay sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930), cơ sở Thanh niên ở Ngọc Thành - Đan Trung đã nhanh chóng trở thành chi bộ cộng sản hoạt động dưới sự chỉ đạo của Phủ ủy Diễn Châu. Ngày 18/9/1930, cuộc họp Hội nghị mở rộng toàn huyện Diễn Châu đã tổ chức tại đền Pháp Độ nhằm củng cố tổ chức Đảng, đồng thời phát động phong trào đấu tranh rộng lớn trong toàn huyện.

Ngày 22/10/1930, Ban chấp hành Phủ ủy họp mở rộng tại đền Pháp Độ. Hội nghị kiểm điểm lại phong trào thời gian qua, bàn biện pháp đấu tranh trong thời gian tới, nhằm góp phần cùng các huyện đưa phong trào cách mạng Nghệ An lên đỉnh cao mới… Từ giữa năm 1931, đền Pháp Độ là nơi Phủ ủy Diễn Châu rút lui vào hoạt động bí mật. Từ năm 1932 đến năm 1935, di tích này là cơ sở hoạt động của Phủ ủy và Tỉnh ủy Nghệ An, nơi hội họp, in truyền đơn, sách báo, tài liệu của Đảng, nơi làm việc của Xứ ủy Trung kỳ do đồng chí Võ Nguyên Hiến phụ trách. 

Trong cách mạng tháng 8/1945, đồng chí Nguyễn Tất Thắng đại diện Tổng bộ Việt Minh đã về Đan Trung treo cờ đỏ sao vàng trước đền Pháp Độ và tập trung nhân dân đi cướp chính quyền, thành lập UBND cách mạng lâm thời Đan Trung. Đền Pháp Độ trở thành trụ sở tổ chức giành chính quyền các địa phương xung quanh.

Trong kháng chiến chống Mỹ, đền Pháp Độ là nơi cấp phát và điều chế thuốc phục vụ cho các chiến trường, nơi cất giấu vũ khí, quân khí, lương thực cho tiền tuyến.

Với những đóng góp cho cách mạng ngay từ khi Đảng mới ra đời và trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc nên đền Pháp Độ được tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhất vào ngày 19/12/1986. Ngày 20/5/1997, đền được cấp Bằng công nhận “Di tích lịch sử văn hóa” cấp Quốc gia. 

Công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc

Không chỉ mang nhiều giá trị về mặt lịch sử, di tích này còn là một công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật đặc sắc. Di tích hướng về phía mặt trời mọc, có núi Mã Phong làm tiền án, phía sau là sông suối làm hậu chẩm… Đền Pháp Độ giữ chặt chẽ niêm luật theo kiến trúc cổ truyền dựa trên thuyết phong thủy của nhân dân ta. Di tích có kết cấu tổng thể theo kiểu chữ Tam, gồm 3 tòa: Thượng điện. Trung điện và Hạ điện với những nét chạm trổ thanh thoát, nhẹ nhàng, tinh tế của kiến trúc cổ.

Đặc biệt, những nét chạm khắc ở những hiện vật cổ như Long ngai, án thư, kiệu đòn rồng…đều đạt đến độ tinh xảo. Ngoài ra, những bút tích xưa để lại như: các bức đại tự, hoành phi, câu đối, chúc văn bằng chữ Hán…đều thấm sâu tư tưởng và triết lý nhân văn “Uống nước nhớ nguồn” và “Nhân sinh do tổ” của dân tộc ta.

Tất cả những tư liệu, hiện vật trong đền đều là nguồn sử liệu thành văn quý giá để chúng ta có cơ sở nghiên cứu truyền thống văn hóa, lịch sử và nét đẹp tâm linh của cộng đồng cư dân người Việt vùng đồng bằng chiêm trũng.

Cứ đến ngày 15/7 âm lịch hàng năm, nhân dân quanh vùng lại tổ chức lễ hội để tưởng nhớ, báo công, dâng lên vị thần “bảo hộ” của mình những thành tích đã đạt được sau 1 năm lao động, sản xuất. Đến chiêm bái ngôi đền, người dân và du khách sẽ được trải nghiệm chuyến du lịch về nguồn tại một di tích lịch sử cách mạng và được sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng tâm linh. 

Đọc thêm