Tài vân du hoằng pháp của tôn giả Cưu Ma La Đa

(PLVN) - Tổ Cưu Ma La Đa (Kumarata), sanh sau Đức Phật nhập Niết bàn 691 năm, ở nước Nguyệt Chí, theo đạo Bà La Môn, cha tên Cưu Thập Miên, mẹ là Nhân Ánh Sanh.
Tổ Cưu Ma La Đa
Tổ Cưu Ma La Đa

Xuất gia nhập thiền vì muốn tìm hiểu bản chất của thế giới

Ngài cùng mẹ đi viếng đền Thiên Yên, trên đường đi phải qua con đò, khi ngồi chờ đò, Tổ Già Da Xá Đa cũng chờ đò, Tổ hỏi Ngài: Ông đến đền Thiên Yên để cầu xin cái gì? Ngài trả lời: Tôi cùng mẹ đến đền Thiên Yên để cầu bình yên trong gia đình. Tổ hỏi: Từ trước đến nay ông cầu như vậy có kết quả gì không? Ngài trầm ngâm một hồi lâu rồi trả lời: Tôi thấy cũng không có kết quả gì, nhưng mẹ bảo là tôi phải đi.

Tổ nói: Ông muốn hiểu sự thật nơi thế giới này không? Nếu được nghe lời chân thật, trên đời này có gì bằng, Ngài trả lời cho Tổ. Tổ liền đọc 16 kệ cho Ngài nghe: Đời là dòng chuyển nhân gian/ Quy luật vật lý, rõ ràng thế thôi; Người đời chỉ vì cái “Tôi”/ Cầu xin lạy lục, ôi thôi sai lầm! Phải biết cấu tạo nơi trần/ Nhân duyên nhân quả, là phần của ta; Dù cho lạy lục gần xa/ Những lời cầu ấy là ta mê lầm! Người khôn phải hiểu chỗ chân/ Luân hồi sinh tử, là phần riêng ta;

Họa hình tôn giả Cưu Ma La Đa
Họa hình tôn giả Cưu Ma La Đa   

Ngày xưa Đức Phật Thích Ca/ Tu thiền Thanh tịnh, nhận ra chỗ này. Ông nay muốn hiểu lời Thầy/ Ta nói pháp ấy, ông đây ngộ liền; Khi ngộ những chuyện linh thiêng/ Là thứ ảo tưởng, ông liền bỏ đi. Nghe Tổ ngâm xong bài kệ 16 câu, Ngài liền Giác ngộ ý nghĩa bài kệ, nên trình với Tổ Già Da Xá Đa: Kính thưa Thầy, bài kệ Thầy vừa đọc, con đã lãnh hội được, vậy kính xin Thầy cho con theo làm đệ tử của Thầy, để con học hỏi những gì mà Thầy đã biết.

Tổ Già Da Xá Đa đồng ý và nhận Ngài làm đệ tử. Mười năm Ngài theo Tổ học đạo thiền, lúc nào Ngài cũng chăm chỉ học hành, một hôm Tổ hỏi Ngài: Con theo ta học đạo thiền, vậy trong 10 năm ấy con học được gì hãy trình bày ta nghe? Ngài liền đọc bài kệ 40 câu: Ngày xưa theo mẹ mong cầu/ Ngày ngày tháng tháng, cứ cầu cứ xin;

Mẹ rằng Bà La rất linh/ Ai đến cầu khẩn, Ngài linh cho liền. Có lần con bị não phiền/ Đến cầu khẩn lạy, xin liền phúc cho; Hằng ngày chân xếp co ro/ Ngồi thiền tưởng nhớ, xin cho lộc xài. Lòng con khẩn nguyện không sai/ Nhưng không linh ứng, lạy hoài không chi; Ngồi nơi bến vắng một khi/ Nhờ Thầy dạy bảo, cầu chi cho phiền. Chỉ cần tâm mình tự yên/ Những điều kỳ diệu, hiện liền ra ngay;

Kể từ đó cho đến nay/ Con bỏ cầu khẩn, thấy ngay Niết bàn. Hiện tại con được bình an/ Không cần khẩn lạy, mà an trong lòng; Thiền tông không phải dụng công/ Chỉ cần thanh tịnh ở trong lòng mình. Thiền Thanh sao lại tuyệt linh/ Không theo vật lý, tuyệt linh vô cùng; Khi tâm thanh tịnh lạ lùng/ Nhìn thấy Bể tánh, khắp vùng mênh mông.

Tượng tổ Cưu Ma La Đa trong chùa Tây Phương (Hà Nội)
Tượng tổ Cưu Ma La Đa trong chùa Tây Phương (Hà Nội)  

Trời đất, phong cảnh, núi sông/ Thấy xuyên qua hết, khắp cùng xa xăm; Thấy vậy, con chỉ âm thầm/ Chỉ cần Thấy, Biết không cần nói ra. Ơn Thầy con đã nhận ra/ Niết bàn thanh tịnh, quê ta đây rồi; Thiền tông kỳ diệu Thầy ôi/ Khi vào Bể tánh, luân hồi lìa ngay. Hôm nay con trình Tổ Ngài/ Những thứ con biết, Tổ Ngài chứng cho; Nhờ Thầy con hết cầu lo/ Rơi vào Bể tánh, không cho luân hồi.

Con nay trình với Thầy thôi/ Những gì con biết, luân hồi không theo; Trần gian không bám không theo/ Con nay giác ngộ, quyết theo pháp thiền. Tổ Già Da Xá Đa vừa nghe Ngài trình bài kệ 40 câu, Tổ biết Ngài đã đạt được “Bí mật Thiền tông”, nên dạy Ngài như sau: Ông nay đã đạt được “Bí mật Thiền tông”, vậy 10 hôm nữa là đến ngày rằm tháng 5, ta sẽ truyền “Bí mật Thiền tông” lại cho ông để thay ta làm Tổ sư Thiền tông đời thứ Mười Chín.

Vậy ông chuẩn bị chánh điện Thiền tông cho trang nghiêm, ta sẽ truyền “Bí mật Thiền tông” lại cho ông. Đúng  ngày rằm tháng 5, buổi lễ truyền “Bí mật Thiền tông” của Tổ Già Da Xá Đa truyền cho Ngài được thực hiện.

Vân du hoằng pháp

 Sau khi được được Tổ Già Da Xá Đa phó chúc và truyền tâm pháp, Cưu Ma La Đa đi vân du khắp nơi để hoằng pháp lợi sanh. Ngài đi giáo hóa đến miền Trung Ấn, trên đường gặp một du khách tên Xà Dạ Đa đến lễ bái Ngài, Ông hỏi: Nhà con cha mẹ đều kính Tam-bảo tu hành đúng pháp, mà sao nhiều bệnh hoạn, làm việc gì thất bại việc ấy. Hàng xóm gần nhà con, có người hung bạo giết hại làm ác càng ngày càng nhiều, mà thân thể khỏe mạnh, ra làm việc đều được như ý. Như vậy, nhân quả nghiệp báo đâu không phải nói suông ư? Con rất nghi lẽ nầy, mong Ngài giải nghi.

Ngài bảo: Phật nói nghiệp báo thông cả ba đời, bởi do đời trước tạo nghiệp lành nên đời nầy hưởng quả lành. Dù đời nầy có làm ác thì quả ác sẽ chịu ở đời sau. Cho nên, có người đời này tuy làm lành mà đời này không hưởng được quả lành, vì nghiệp ác trước mạnh hơn. Có người đời này tuy làm ác mà không chịu quả ác, vì nghiệp lành trước mạnh hơn.

Nếu do đời này không được quả lành, rồi lại tạo ác, thì đời sau càng sa vào đường ác. Nếu do đời này được quả lành, rồi lại tạo lành, thì đời sau càng tiến trên đường lành. Lại có người đời trước làm lành được nửa đời, đổi sang làm ác, đến đời này nửa đời trước hưởng phước, nửa đời sau mắc họa. Hiện nay cha mẹ ông và người hàng xóm lẽ báo ứng thiện ác cũng giống như thế, bởi nghiệp đời trước chiêu cảm nên vậy. Đâu thể căn cứ trong hiện đời mà hiểu được?

Xà Dạ Đa nghe giải liền tan hết nghi ngờ. Ngài dạy thêm: Tuy ông đã tin nghiệp ba đời, mà chưa rõ nghiệp từ hoặc sinh, hoặc nhân thức có, thức y nơi bất giác, bất giác y nơi tâm. Song tâm vốn thanh tịnh, không sinh diệt, không tạo tác, không báo ứng, không hơn kém, lặng lẽ linh thông. Ông nếu vào pháp môn này có thể đồng với chư Phật, tất cả thiện ác, hữu vi, vô vi, đều như mộng huyễn.

Xà Dạ Đa nghe được lời ấy liền phát huệ đời trước, bèn xin xuất gia. Ngài hỏi: Ông người xứ nào? Cha mẹ còn chăng? Nếu thật tâm cầu đạo, nên trở về nhà xin với cha mẹ, xin xong trở lại cũng chẳng muộn. Xà Dạ Đa thưa: Con là người Bắc Ấn, cách đây hơn ba ngàn dặm, đâu thể trở lại được. Xin thỉnh Ngài đến xứ con, cho gia đình con cúng dường và nhân đó con được xuất gia. Ngài bằng lòng, thầy trò và đồ chúng đồng sang Bắc Ấn.

Đến nhà, Xà Dạ Đa xin phép cha mẹ được xuất gia. Ngài làm lễ xuất gia và truyền giới cụ túc cho Dạ Đa tại một ngôi tháp cổ, nơi quê hương của Dạ Đa. Một hôm, Ngài gọi Dạ Đa đến dặn dò: Xưa Phật ghi rằng ngươi sẽ làm Tổ thứ hai mươi, nay ta trao pháp nhãn tạng cho ngươi, ngươi khéo giữgìn và truyền bá.

Nghe ta nói kệ: Tánh thượng bổn vô sanh/ Vị đối cầu nhơn thuyết; Ư pháp ký vô đắc/ Hà hoài quyết bất quyết. Dịch nghĩa: Trên tánh vốn không sanh/ Vì đối người cầu nói; Nơi pháp đã không được/ Đâu cần giải chẳng giải.

Sau đó Tổ lại dặn: Kệ này là lời diệu, do Như Lai thấy tánh thanh tịnh nói ra, ngươi nên vâng giữ. Xà Dạ Đa cung kính đảnh lễ vâng dạy. Ngài ngồi ngay trên tòa chắp tay hở ra như hoa sen nở, phóng hào quang sáng suốt soi khắp trong chúng, rồi yên lặng thị tịch. Toàn chúng xây tháp phụng thờ. 

Đọc thêm