Tại cuộc giám sát của Thường trực HĐND thành phố về việc triển khai thực hiện nghị quyết 10 HĐND thành phố mới đây ở huyện Vĩnh Bảo do Phó chủ tịch HĐND thành phố Nguyễn Thị Nghĩa chủ trì, những khó khăn, thuận lợi chung quanh việc triển khai xây dựng hạ tầng vùng sản xuất tập trung tại các địa phương được làm rõ.
Kết quả bước đầu
Với việc triển khai quyết liệt nghị quyết của các cấp, tập trung ban hành và thực hiện nhiều chương trình, đề án và cơ chế hỗ trợ nông dân phù hợp, đến nay huyện Vĩnh Bảo hình thành nhiều vùng sản xuất tập trung bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người dân địa phương. Phó chủ tịch UBND huyện Vĩnh Bảo Nguyễn Trọng Nhưỡng cho biết, sau 2 năm thực hiện nghị quyết 10 của HĐND và Quyết định 1465 của UBND thành phố về cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp, thủy sản đến năm 2010, kinh tế nói chung, lĩnh vực nông nghiệp nói riêng có bước phát triển đáng ghi nhận. Theo đó, trên địa bàn huyện hình thành nhiều mô hình, vùng sản xuất nông nghiệp, thủy sản, rau màu, chăn nuôi tập trung quy mô lớn, đem lại hiệu quả kinh tế cao.
|
Đường giao thông vào khu vực một số trang trại chăn nuôi tập trung tại xã Vĩnh An (Vĩnh Bảo) chưa được đầu tư xây dựng, gây khó khăn cho việc đi lại phục vụ sản xuất của bà con. Ảnh: Minh Trí |
Qua đó, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng nhanh giá trị sản xuất nông nghiệp-thủy sản địa phương. Năm 2009 tăng 6,2% so với năm 2008. Năng suất lúa của địa phương liên tục đạt cao và dẫn đầu thành phố. Quan trọng hơn là thông qua đó góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hướng CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Đến nay, các địa phương trong huyện hình thành 11 vùng chuyển đổi sản xuất tập trung theo quy hoạch, kế hoạch đăng ký của xã, thị trấn năm 2009-2010. Đó là vùng chuyển đổi đất lúa sang sản xuất giống lúa thuần (vùng giống nhân dân) ở 25 xã với diện tích 275 ha; vùng sản xuất giống lúa lai F1 64 ha ở 6 xã Tân Liên, Nhân Hòa, Thanh Lương, Đồng Minh, Hưng Nhân và Tiền Phong; vùng sản xuất lúa chất lượng cao 846 ha tại 30 xã, thị trấn; vùng sản xuất giống ngô lai F1 55ha ở 7 xã; vùng sản xuất giống khoai tây, khoai tây xuất khẩu 90 ha ở 7 xã.
Chưa rõ vai trò “bà đỡ” ngân sách
Chung quanh việc quy hoạch, hình thành những vùng sản xuất tập trung trên địa bàn huyện Vĩnh Bảo cũng nảy sinh không ít khó khăn. Theo ông Nguyễn Trọng Nhưỡng, khó khăn lớn nhất hiện nay đối với địa phương là hệ thống cơ sở hạ tầng như đường giao thông, điện, cấp, thoát nước, xử lý môi trường chưa đồng bộ. Những vùng sản xuất tập trung chỉ dừng lại ở việc người dân tự chuyển đổi ruộng đất cho nhau và tự bỏ tiền đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là chủ yếu. Nguồn ngân sách nhà nước, thành phố, huyện hỗ trợ chương trình này so với yêu cầu đầu tư rất thấp, hoặc nếu có cũng chẳng đáng là bao so với tổng giá trị đầu tư. Đơn cử, để xây dựng một trang trại chăn nuôi lợn siêu nạc quy mô 5.000-6.000 con, cần đầu tư khoảng gần 1 tỷ đồng; trang trại chăn nuôi gà cũng cần 400-500 triệu đồng/trại (tùy theo quy mô). Khảo sát thực tế tại khu chăn nuôi tập trung xã Vĩnh An, hầu hết thành viên trong đoàn giám sát HĐND thành phố đều cho rằng hệ thống đường giao thông quá xuống cấp, hệ thống cấp, thoát nước còn nhiều bất cập, chủ yếu vẫn xả thải trực tiếp ra ao, hồ chung quanh. Đường dẫn tới các trang trại chăn nuôi tập trung ở xã Vĩnh An gập ghềnh, ổ voi, ổ gà. Nguồn điện phục vụ sản xuất không ổn định. Hạ tầng vùng sản xuất giống lúa, hoa màu, nuôi trồng thủy sản cũng trong tình trạng tương tự. Tại các vùng nuôi trồng thủy sản như Cao Minh, Hiệp Hòa; vùng sản xuất lúa thuần, lúa giống, sản xuất rau an toàn… khó khăn về hạ tầng, hệ thống đường giao thông nội vùng, hệ thống tưới tiêu… ảnh hưởng nhiều đến hoạt động sản xuất. Bà con ở đây cho biết, kinh phí đầu tư chủ yếu do người dân tự bỏ tiền đắp bờ, quây vùng sản xuất, tự chuyển đổi ruộng đất cho nhau.
Hình thành những vùng sản xuất tập trung đang là xu hướng tất yếu trong tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH-HĐH. Để khuyến khích sản xuất tập trung phát triển, địa phương rất cần sự quan tâm đầu tư hỗ trợ kinh phí xây dựng cơ sở hạ tầng nhiều và kịp thời hơn từ trung ương, thành phố.
Tiến Đạt