Bài đố cực khó khi làm đình Sừng được các hiệp thợ xưa giải quyết như thế nào?

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Theo lời các bậc cao niên làng Quỳ Lăng (huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An), hai nửa Đông - Tây của đình Sừng được làm bởi hai hiệp thợ khác nhau. Trong một thời gian nhất định, hai hiệp thợ phải giữ bí mật, không được trao đổi nhưng vào ngày dựng đình lại phải khít nhau tăm tắp. Đề bài “chơi khó” càng cho thấy tài năng của các nghệ nhân xưa. 
Đình Sừng hiện có 3 công trình cổ là bái đình, hậu cung và miếu thờ.
Đình Sừng hiện có 3 công trình cổ là bái đình, hậu cung và miếu thờ.

600 người cùng nhau dựng đình

Làng Quỳ Lăng xưa có tên gọi Kẻ Sừng. Trước mặt làng là một cánh đồng rộng lớn, sau là núi cao trùng điệp. Người đời cho rằng đây là một vùng đất không những thuận lợi cho việc phòng thủ trong chiến tranh, tiến có thể đánh, lui có thể giữ mà còn có nhiều lợi thế về phát triển kinh tế. Chính nhờ lợi thế độc đáo đó mà vùng đất kẻ Sừng đã sớm trở thành nơi tụ tập dân cư, trở thành trung tâm của vùng Diễn Châu xưa.

Theo cuốn lịch sử huyện Yên Thành, năm Trinh Quán thứ nhất (627) đời Đường, Hoan Châu được chia thành Diễn Châu và Hoan Châu, lỵ sở của Diễn Châu đóng ở làng Kẻ Sừng, xã Qùy Lăng nay thuộc xã Lăng Thành. Sang thời độc lập, nhà Khúc (905-907), nhà Ngô (939-965) vùng Quỳ Lăng vẫn là trung tâm của Châu Diễn.

Mong muốn có một nơi để tổ chức các sinh hoạt cộng đồng, tháng 11/1583, nhân dân đã cùng nhau dựng một ngôi đình. Ngôi đình Sừng thuở ban đầu được làm bằng tranh tre, nứa lá, quanh đình có làng mạc, cây đa, bến nước, có con sông Sừng uốn khúc như dải lụa mềm chở nặng phù sa tắm mát cho ruộng đồng. Tới năm 1797, dân làng dựng thêm tòa hậu cung để làm nơi thờ phụng làng. Đình Sừng trong quá trình tồn tại và phát triển đã trải qua nhiều lần tu sửa lần lượt vào các năm: 1637, 1677, 1787, 1913 và đến năm 1929 đình được tu lý xây dựng lại to đẹp như hiện nay. 

Bái đình do 2 hiệp thợ khác nhau làm và được dựng bởi khoảng 600 người.
Bái đình do 2 hiệp thợ khác nhau làm và được dựng bởi khoảng 600 người. 

Theo đó, năm Đinh Mão 1927, nhân dân làng Quỳ Lăng khi có quyết định tu sửa đình thì đã cùng nhau chuẩn bị gỗ, tiền bạc và công sức. Gỗ lim được sử dụng phải là loại tốt nhất và to nhất trong các khu rừng của làng quỳ Lăng. Việc tìm gỗ được chia đều cho 11 giáp. Về tiền, làng đặt cho thợ 5 ngàn quan, khoản tiền này lấy từ nguồn thu bán chức sắc như hiệu xạ, thần tổ của Làng và tiền thu bổ theo đinh điền. Về ngói, làng tự lập ra tổ thợ mở lò dập theo một khuôn riêng và được nung nấu theo đúng tiêu chuẩn.

Sau 3 năm chuẩn bị, đến năm 1929, dưới sự chỉ đạo của đốc Hoàng Doãn Cù, quê ở Diễn Châu việc tôn tạo, xây dựng lại đình được khởi công. Ngày nay người dân Diễn Châu vẫn còn lưu truyền bài vè phản ánh không khí lao động sôi nổi của dân làng thuở đó: “Bấy giờ họp xã đinh, tiền/ Người bỏ vô điện, người bỏ vô đình/ Dưới trên ai nấy thuận tình/Trống đánh dập dình, reo hát cả ngày đêm/Ba năm kéo gỗ một miền/Đắp nền thuê thợ tức thì làm ngay”.

Đình Sừng khi đó được xây dựng với quy mô to lớn chưa từng có trong vùng và lẽ đương nhiên không thiếu những câu chuyện như huyền thoại quanh đình. Theo một số bậc cao niên ở xã Lăng Thành, đình Sừng khi đó được giao cho 2 hiệp thợ thi công, nửa đình phía Đông do thợ Diễn Châu đảm nhận, nửa phía Tây được giao cho hiệp thợ Yên Thành. Sau khi thống nhất khuôn mẫu và kích thước, hai bên tiến hành làm trong một thời gian theo quy định, nhưng phải giữ kín bí mật, không được trao đổi với nhau cho tới khi xong việc. 

Lúc dựng đình, làng đã phải huy động mỗi bên khoảng 300 người, dùng dây tre bện lại với nhau để kéo, khi có hiệu lệnh cả hai bên đều kéo vầy đình lên cùng một lúc. Mặc dù các phần đình chỉ được làm bằng phương pháp thủ công, nhưng khi dựng lên hai phần đình đều khít với nhau và các cột đình đều đứng ngay giữa hòn đá tảng. Điều này đã chứng minh cho tài nghệ của các nghệ nhân dân gian đất Việt. 

Trên bờ nóc, con xô và tường đốc của đình còn được đắp nổi hình đôi rồng chầu mặt nguyệt...
Trên bờ nóc, con xô và tường đốc của đình còn được đắp nổi hình  đôi rồng chầu mặt nguyệt...

Tác phẩm kiến trúc và nghệ thuật 

Đình Sừng được xây dựng theo kiến trúc thời Nguyễn với quy mô dài 24,7m; rộng 11,2m. Khung sườn nhà được làm bằng gỗ lim, kích thước lớn. Tòa đình có 6 vì được liên kết với nhau bởi đường thượng lương và có hệ thống giằng cột, xà dọc, xà ngang đóng khít tạo thành 5 gian rộng và 2 gian phụ ở đầu hồi văn. Mỗi vì có bốn cột, hai cột cái cao 5,63m, đường kính 0,42m; hai cột quân cao 4,33m, đường kính 0,4m. Toàn bộ tòa đình có 24 cột, tất cả đều có hình trụ tròn kê trên một chân tảng bằng đá thanh có kích cỡ, kiểu dáng, màu sắc giống nhau. Các xà hạ, kẻ ở đình có kích thước lớn, được chạm trổ công phu.

Tất cả các bộ phận kiến trúc của đình như bờ nóc, con xô, xà… đều được các nghệ nhân trang trí vô cùng công phu bằng phương pháp điêu khắc và chạm trổ. Trang trí trên kiến trúc gỗ, đề tài được thể hiện ở đây cũng xoay quanh những mô típ quen thuộc như: “Tứ Linh”, “Tứ Quý” nhưng bằng sự bố trí các mảng một cách hài hòa cân đối, toát lên vẻ sinh động thu hút người xem.

Đình Sừng nổi bật với 4 bức cốn mê ở 4 góc của bái đình được chạm lộng tỷ mỷ, công phu hình ảnh "tứ linh": long, ly, quy, phượng.
Đình Sừng nổi bật với 4 bức cốn mê ở 4 góc của bái đình được chạm lộng tỷ mỷ, công phu hình ảnh "tứ linh": long, ly, quy, phượng. 

Điều đáng chú ý là 4 bức chạm trên 4 bức cốn mê ở 4 góc của tòa bái đình với cách bố trí đăng đối, cân xứng với nghệ thuật chạm lỗng tỷ mỷ, công phu mang tính điệu nghệ cao với 4 con vật linh thiêng: Long, Ly, Quy, Phượng được thể hiện vừa mảnh mai, uyển chuyển vừa mang tính nhân hóa cao.

Đặc biệt trên tất cả các kẻ của bái đình đều được chạm khắc hai mặt với đề tài xen kẽ như: “Phượng hàm thư”, “Cá chép hóa rồng, “Tùng lộc”, “Rồng chầu nguyệt” ... và hình tượng “Long vân” cũng là đề tài được thể hiện nhiều trên các xà, đầu dư, đuôi bẩy của đình với tài nghệ điêu khắc đã được cảm giác như đang thấy rồng ẩn hiện trong mây.

Trên bờ nóc, con xô và hai mảng tường bít đốc, bằng các chất liệu sẵn có tại địa phương như vôi vữa và mật mía được các nghệ nhân trộn lẫn để đắp các hình tượng Rồng chầu, Phượng múa bằng những mảng phù điêu sinh động. 

Dù đình được làm theo một mô típ đã định sẵn, nhưng bởi được làm từ 2 tốp thợ khác nhau nên nhiều mảng chạm trổ tuy cùng một đề tài, nhưng thần thái, cách thể hiện lại hoàn toàn khác nhau. Dù vậy tất cả đều toát lên tính nhân văn sâu sắc, thể hiện truyền thống của một dân tộc, đó là: Thanh cao, tinh khiết, thủy chung, thuần hậu, kiên cường và tâm hồn hướng thiện, hướng thượng, hiếu mỹ, lạc quan, có một cuộc sống thanh bình.

* (Ảnh trong bài là của Báo Nghệ An) 

Ngày 12/8/1945, tại ngôi đình cổ quần chúng nhân dân Quỳ Lăng đã tập trung tổ chức cướp chính quyền từ tay phong kiến, đồng thời cũng là nơi tổ chức các cuộc vận động lớn như: Tuần lễ vàng, tuần lễ vũ khí, công phiếu kháng chiến, công phiếu Quốc Gia, là trường học, nơi chứa thóc cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong kháng chiến chống Mỹ có thời gian dài, đình là nơi đóng xưởng dệt của Quân khu 4. Ngày nay, đình là trung tâm diễn ra nhiều hoạt động mang đậm bản sắc văn hóa địa phương như: tế thần, rước kiệu, hát ả đào, ca trù, hát chèo, vật cù lộ, là nơi tổ chức hội họp của của các tổ chức đoàn thể...

Hiện nay, đình Sừng nằm giữa một vùng đất rộng bằng phẳng, bốn bề là những cánh đồng rộng lớn, tuy hơi xa nhưng cảnh quan nơi đây vẫn thoáng đãng, mát mẻ. Nằm cách đình một quãng về phía Đông là sông Dinh, 1 đoạn trong hệ thống tưới tiêu Vách Bắc, phía Tây là làng mạc, chợ búa sầm uất nằm xen giữa những vườn đồi và rừng cổ thụ bạt ngàn. 

Đọc thêm