Nhớ một thời làm giàu bằng nghề buôn trầu ở đất An Khê

0:00 / 0:00
0:00
(PLVN) - Vùng đất An Khê xưa với điều kiện khí hậu, đất đai thuận lợi đã trồng rất nhiều cau, trầu. Theo sử sách ghi lại, Nguyễn Nhạc trước khi trở thành thủ lĩnh của nghĩa quân Tây Sơn cũng đã đi buôn trầu nên dân gian gọi là “anh Hai Trầu”.. 
(ảnh minh họa).
(ảnh minh họa).

Nghề buôn nối tình hai miền Kinh - Thượng

Vùng đất An Khê xưa bao gồm thị xã An Khê và 3 huyện Đak Pơ, Kbang, Kông Chro, tỉnh Gia Lai ngày nay. Nơi đây được xem là “địa lợi” của 3 anh em nhà Tây Sơn trong buổi đầu chiêu binh tụ nghĩa. Từ căn cứ này, họ đã tích trữ quân lương, hiệu triệu nhân dân phất cờ khởi nghĩa, thần tốc lập nên những chiến công hiển hách, lưu danh trong sử vàng dân tộc.

Ông Trần Trung Thông, Chuyên viên nghiên cứu lịch sử ở Bảo tàng Quang Trung (huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định) cho biết: “Trước khởi nghĩa Nguyễn Nhạc là người buôn bán trầu dọc Sông Kon. Trầu thì từ Thượng nguồn đưa xuống, Cá chuồn mắm muối gửi lên. Trong giai đoạn buôn bán như vậy Nguyễn Nhạc kết thân với rất nhiều người giàu và nghèo. Theo một số tài liệu lịch sử chép: Khi khởi nghĩa, ông được đồng bào Tây Nguyên giúp sức, trong đó có sự tham gia của những nông dân nghèo mà Nguyễn Nhạc giúp đỡ và những tiểu thương giàu có cùng buôn bán với ông”.

Nhiều vị cao niên tại thị trấn kể lại, những năm 1900, nhiều người Kinh đã đưa cả gia đình lên vùng đất An Khê để lập nghiệp bằng nghề buôn bán trầu, khi đó đồng bào dân tộc như Gia Rai, Ba Na, Giẻ Triêng, Xơ Đăng, Cơ Ho...chưa đông đúc.

“Thời các ông và bố tôi rất ít ai gọi vùng đất này là An Khê, người dân chỉ gọi là vùng Thượng đạo để phân biệt với vùng Hạ đạo ở dưới đèo. Gia đình tôi từ cụ nội đến bố tôi đều đi buôn trầu. Các cụ thường vào làng của đồng bào Gia Rai, Ba Na mua trầu mang về bán ở dưới vùng Hạ đạo. Cả xóm tôi xưa kia đều sống, làm giàu bằng nghề này”, cụ Ba Cảnh (Tổ dân phố 14, phường Tây Sơn và 16 phường An Phú, Thị trấn An Khê) cho hay. 

 

Trong ký ức của những người như cụ Ba Cảnh thì trầu của người Thượng khi đó rất đắt, chỉ có những người buôn bán lâu năm, uy tín thì mới được những người buôn kỳ cựu như bố cụ Ba Cảnh chia trầu cho để mang về xuôi. Nhiều người buôn trầu từ dưới xuôi lên phải nằm đợi thêm vài ngày mới có trầu mang về xuôi. 

Trầu ở vùng Thượng đạo xưa kia tập trung nhiều nhất ở ba nguồn chính: nguồn Ốc Bưu (vùng Nam An Khê ngày nay), nguồn Tầu Dầu (vùng Đak Pơ) và một nguồn ở khu vực Quảng Ngãi. Ngày xưa, để mua được trầu ngon, những người buôn trầu thường phải hẹn trước với người Thượng. Lịch hẹn khi đó được tính bằng một sợi dây. Ví như, nếu hẹn 15 đêm ông thắt 15 nút buộc. Mỗi nút tương ứng với một đêm và dặn người trồng trầu mỗi đêm nhớ mở ra một nút để đúng hẹn, sẽ có trầu hái sẵn chỉ việc đến lấy. 

Người Thượng ở vùng đất An Khê rất uy tín, nếu đã hẹn với ai thì họ không bao giờ lỗi hẹn. Dù cho có được các lái buôn khác đến trả giá trầu cao hơn thì họ cũng không bao giờ bán mà chỉ để lại cho người đã hẹn trước.  Người ta tính trầu bằng cách xếp 10 lá thành một xếp, 10 xếp thành một trăm, 10 trăm thành một thiên, 10 thiên là một ràng. Lá trầu nguồn từ vùng An Khê được xem là loại trầu ngon bậc nhất, không nơi nào sánh bằng. 

Những người sành ăn trầu nhận xét rằng, ăn trầu nguồn - trầu của người Thượng mà phần nhiều là trầu rừng thì ngon hơn trầu nhà. Trầu của người Thượng dẻo và thơm hơn trầu nhà rất nhiều. Người ăn khi nhai miếng trầu xong nhổ miếng bã trầu cũng đẹp.

Tục ăn trầu từ lâu đã xuất hiện ở Việt Nam
Tục ăn trầu từ lâu đã xuất hiện ở Việt Nam 

Nghề buôn trầu phát triển nhất vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Hoạt động buôn bán này góp phần tạo mối quan hệ giao thương buôn bán tấp nập giữa hai vùng, sản vật từ thượng đạo mang xuống và từ hạ đạo mang lên. Hoạt động buôn bán này cũng bị Pháp kiểm soát gắt gao. Những người đi buôn ở vùng này thời đó sẽ được cấp một thẻ căn cước, chụp hình, đóng dấu nổi. Mỗi năm phải nộp thuế môn bài mấy đồng bạc. Nếu chẳng may bị Pháp kiểm tra mà không có thẻ này thì sẽ bị phạt rất nặng. 

Nghề buôn trầu ở vùng đất An Khê này lụi tàn dần cho đến 9 năm chống Pháp thì hầu như chấm dứt hẳn. Có lẽ những năm tháng khó khăn trong cuộc kháng chiến trường kỳ, chẳng ai còn nghĩ tới thú thưởng trầu. 

Tục ăn trầu của người Việt

Ăn trầu là một phong tục cổ truyền của người Việt Nam có từ thời Hùng Vương. Miếng trầu gắn liền với một câu chuyện cổ tích Trầu Cau đầy tình anh em, vợ chồng.

Miếng trầu xuất hiện nhiều trong đời sống sinh hoạt của người dân Việt. Như người xưa từng nói “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, trầu dùng để mời khách đến chơi nhà. Mâm cỗ cúng gia tiên cũng không thể thiếu được miếng trầu. Tiệc cưới có đĩa trầu để chia vui. Miếng trầu, còn là tượng trưng cho tình yêu lứa đôi; miếng trầu đi đầu, tác hợp cho lứa đôi, là sợi dây kết chặt mối lương duyên trai, gái thành vợ thành chồng. Để đưa mâm lễ sang thưa chuyện nhà gái, nhà trai không thể thiếu được lá trầu, quả cau.

Người xưa ăn trầu còn là để bảo vệ hàm răng của mình, chất chát của trầu cau làm cho lợi răng co lại ôm sát lấy chân răng, làm hàm răng cứng chặt lại không lung lay. Còn trong y học cổ truyền, người Việt Nam xưa đã dùng trầu cau như một thứ thuốc chống bệnh sốt rét khi vào rừng sâu săn bắn hoặc xuống biển mò ngọc trai.

Nhiều người hiện nay nghĩ rằng tục ăn trầu chỉ có ở người Kinh nhưng từ ở vùng đất An Khê xưa, nơi mà vua Nguyễn Nhạc đã sử dụng nghề buôn trầu làm cái cớ để đi sâu vào vùng thượng đạo xem xét địa thế, liên kết với các tù trưởng Ba Na tính chuyện bày binh bố trận sau này.

Hiện tại người buôn trầu cau là những đại lý lớn.
 Hiện tại người buôn trầu cau là những đại lý lớn. 

Theo lời của nhiều cụ cao niên tại các bản, làng Ba Na truyền lại, ngày xưa người dân ở đây nghe lời Nguyễn Nhạc bảo đi lấy trầu rừng về đổi muối, đổi dao thì đồng bào rất mừng. Công việc kéo dài đến cả gần chục mùa rẫy. Từ sự trao đổi hàng hóa tiến đến sự thân tình, họ học theo ông nhuộm răng đen rồi ăn trầu…

Cũng từ đó mà đồng bào Ba Na bắt đầu học cái thói quen ăn trầu của những người Kinh dưới vùng Hạ thượng mang lên. Theo trí nhớ của nhiều già làng, trước đây nhà người Ba Na nào cũng có một hàng cau, giàn trầu. Cũng như người Kinh, đám cưới, đám ma, bỏ mả hay những việc hiếu hỉ đều phải có miếng trầu. Nhưng rồi theo thời gian, câu chuyện trầu cau cứ phai nhạt dần. Bây giờ ở các làng chỉ có một vài cụ bà cao niên là còn giữ thói quen này, cánh đàn ông đã bỏ từ lâu. 

PGS. TS Nguyễn Khắc Sử, Viện Khảo cổ học, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam cho biết: “Các tộc người bản địa ở An Khê, trong đó có người Ba Na - những cư dân nói ngôn ngữ Môn Khê Me, họ chính là chủ nhân của một giai đoạn rất dài cho văn hóa ở khu vực này. Người kinh lên đây tiếp xúc, giao thoa với nhau tạo nên tình đoàn kết Kinh - Thượng mẫu mực cho giai đoạn đầu tiên và là sức mạnh tinh thần cho toàn bộ các cuộc khởi nghĩa nông dân nhà Tây Sơn”.

Đọc thêm