Một đại dịch đã tàn phá thế giới như cháy rừng, giết chết hơn 50 triệu người trên toàn cầu và khoảng 675.000 người ở Mỹ. "Cường độ và tốc độ mà nó tấn công gần như không thể tưởng tượng được - lây nhiễm một phần ba dân số Trái đất", Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết. Đó là đại dịch cúm năm 1918. Virus này thường được gọi là "cúm Tây Ban Nha", mặc dù nó không bắt nguồn từ Tây Ban Nha.
Và khi thế giới đang đối phó với một đại dịch nguy hiểm không kém - đại dịch Covid-19, thì một số bài học đau đớn rút ra từ đại dịch năm 1918 vẫn còn giá trị thực tiễn, có thể giúp ngăn chặn một kết cục thảm khốc không kém.
Bài học số 1: Đừng buông xuôi giãn cách xã hội quá sớm
Các nhà dịch tễ học cho biết, trong đại dịch cúm Tây Ban Nha, mọi người đã dừng giãn cách xã hội quá sớm, dẫn đến một đợt lây nhiễm thứ hai còn nguy hiểm hơn lần đầu tiên. Trên thực tế, những ca nhiễm gần cuối làn sóng đầu tiên vào năm 1918 đã thúc đẩy làn sóng thứ hai có tỷ lệ tử vong cao hơn do không có giãn cách xã hội.
Nhà dịch tễ học, Tiến sĩ Larry Brilliant cho biết, tại San Francisco (Mỹ), khi số ca mắc bệnh cúm ở Tây Ban Nha gần như bằng không, mọi người cùng tham gia diễu hành ở trung tâm TP và tháo khẩu trang. Hai tháng sau sự kiện đó, đại dịch cúm đã quay trở lại TP một lần nữa.
Hay như TP Philadelphia, mặc dù 600 thủy thủ từ Căn cứ hải quân Philadelphia bị cúm Tây Ban Nha vào tháng 9/1918, TP đã không hủy bỏ một cuộc diễu hành vào ngày 28/9/1918. Ba ngày sau, theo Trung tâm Lưu trữ Đại học Pennsylvania, Philadelphia có 635 ca cúm mới của Tây Ban Nha và trở thành thành phố có số người chết vì cúm cao nhất ở Mỹ.
Bài học số 2: Người trưởng thành trẻ, khỏe mạnh có thể là nạn nhân của hệ thống miễn dịch mạnh mẽ của họ
John M. Barry, Giáo sư tại Trường Y tế Công cộng và Nhiệt đới thuộc Đại học Tulane, tác giả của "Đại dịch cúm: Câu chuyện về đại dịch nguy hiểm nhất trong lịch sử", cho biết, đại dịch năm 1918 đã giết chết nhiều thanh niên trẻ khỏe mạnh. Khoảng hai phần ba số người chết là ở độ tuổi từ 18 đến 50.
Trước khi có đại dịch cúm năm 1918, tuổi thọ ở Mỹ là vào khoảng 50 tuổi. Nhưng chỉ trong một năm sau khi đại dịch xảy ra, tuổi thọ trung bình của Hoa Kỳ đã giảm 12 năm.
|
Thống kê của Trung tâm kiểm soát và ngăn chặn dịch bệnh Mỹ đầu tháng 4 cho thấy, 20% bệnh nhân COVID-19 của Mỹ ở độ tuổi 20 đến 44. Ảnh: CNN |
Tính đến năm 2017, tuổi thọ trung bình của Hoa Kỳ là 78,6 năm. Và với dịch virus corona, người già và những người có vấn đề sức khỏe tiềm ẩn có nguy cơ cao bị biến chứng nặng. Tuy nhiên, nhiều người trẻ, khỏe mạnh cũng đang bị bệnh nặng hoặc chết vì Covid-19.
Một lý do khiến cúm năm 1918 gây tử vong cho thanh niên là vì dịch bắt đầu trong Thế chiến I, khi nhiều binh sĩ ở trong doanh trại và ở rất gần nhau. "Các trại huấn luyện của quân đội Hoa Kỳ rõ ràng có tỷ lệ tử vong cao", Giáo sư John M. Barry nói.
Giáo sư John M. Barry nhận định, "Bây giờ không có chiến tranh thế giới, nhưng vẫn còn những bài học quan trọng: "Những người trẻ, khỏe mạnh không phải là bất khả chiến bại. Và hệ thống miễn dịch mạnh mẽ của họ có thể làm việc chống lại họ".
Nhìn lại bệnh cúm Tây Ban Nha, các nhà khoa học hiện tin rằng "phản ứng thái quá của hệ miễn dịch đã góp phần làm tăng tỷ lệ tử vong cao ở những người trẻ tuổi khỏe mạnh vào năm 1918", - Tiến sĩ Richard Gunderman, Giáo sư y khoa của Đại học Indiana (Mỹ) viết.
Từ đó, Phóng viên y tế của CNN, Tiến sĩ Sanjay Gupta nhận định, "Một thế kỷ sau đại dịch đó, các hệ thống miễn dịch năng động cũng có thể góp phần gây ra cái chết của những người trẻ tuổi do virus corona". Những phản ứng quá mạnh này thường được gọi là cơn bão cytokine.
"Ở một số người trẻ, khỏe mạnh, một hệ thống miễn dịch rất dễ phản ứng có thể dẫn đến một cơn bão viêm lớn có thể áp đảo phổi và các cơ quan khác.Trong những trường hợp đó, đó không phải là một hệ thống miễn dịch già hay yếu mà vấn đề là một hệ thống hoạt động quá tốt" - Tiến sĩ Sanjay Gupta giải thích.
Bài học số 3: Đừng dùng thuốc chưa được kiểm chứng để đối phó virus
Dù đã có những tiến bộ y tế và công nghệ lớn trong 102 năm qua, nhưng dịch cúm Tây Ban Nha và đại dịch virus corona mới có chung hai thách thức: thiếu vắc-xin và thiếu thuốc chữa.
Theo một bài nghiên cứu của Đại học Stanford, trở lại năm 1918, các phương thuốc "đa dạng từ các loại thuốc mới được phát triển từ các loại dầu đến thảo dược". Liệu pháp này ít khoa học hơn nhiều so với chẩn đoán, vì các loại thuốc này chưa được kiểm chứng hiệu quả.
Vào năm 2020, có nhiều suy đoán về việc liệu hydroxychloroquine - một loại thuốc dùng để điều trị bệnh sốt rét, lupus và viêm khớp dạng thấp - có thể giúp bệnh nhân COVID-19 hay không.
|
Hiệu quả của hydroxychloroquine trong điều trị COVID-19 chưa được kiểm chứng. Ảnh: CNN |
Tổng thống Donald Trump đã cho hydroxychloroquine là "kẻ thay đổi cuộc chơi" trong việc đối phó với virus corona. Một số người bắt đầu tích trữ thuốc - mặc dù nó vẫn đang được thử nghiệm và thậm chí có thể không chống lại được virus này.
Một nghiên cứu gần đây cho thấy hydroxychloroquine không giúp bệnh nhân của virus corona, mà thay vào đó còn khiến nhịp tim của một số bệnh nhân trở nên bất thường.
"Điều này cung cấp bằng chứng rằng hydroxychloroquine dường như không điều trị được cho bệnh nhân mắc COVID-19. Thậm chí tệ hơn, đã có tác dụng phụ gây ra bởi thuốc, nhiễm độc tim nên cần phải ngừng sử dụng" - Tiến sĩ Paul Offit, chuyên gia về bệnh truyền nhiễm tại Bệnh viện Nhi đồng Philadelphia (Mỹ), cho biết.
Các bác sĩ ở Brazil và Thụy Điển cũng đã đưa ra lo ngại về việc sử dụng chloroquine, một loại thuốc rất giống với hydroxychloroquine, để điều trị bệnh nhân COVID-19 vì các vấn đề về tim. Điểm mấu chốt là vẫn chưa rõ liệu một số loại thuốc sẽ gây hại nhiều hơn hay là có lợi hơn trong cuộc chiến chống lại virus corona.