Quang Trung ba lần tới lều cỏ mời Nguyễn Thiếp
Nguyễn Thiếp được sinh ra trong một gia đình hiếu học tại làng Mật Thôn, xã Nguyệt Ao, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, phủ Đức Quang (nay thuộc Can Lộc, Hà Tĩnh). Ông là một trong bốn nhân vật được giới học thuật xếp vào hàng phu tử (nhà hiền triết) trong lịch sử dân tộc.
Từ nhỏ Nguyễn Thiếp đã bộc lộ thiên chất thông minh, học rộng, hiểu sâu, sớm nhận biết được nhân tình thế thái, được theo học với người chú Nguyễn Hành (Nguyễn Hành đậu tiến sĩ năm 1733) làm quan Hiến sát sứ ở Thái Nguyên nên cụ sớm hiểu biết được cuộc sống nơi chốn quan trường.
Năm 1743, ông đi thi Hương và đậu hương giải, được bổ làm Huấn Đạo rồi thăng Tri Huyện Thanh Chương (Nghệ An). Ra làm quan giữa thời buổi nhiễu nhương, với cảnh tượng “chúa ác, vua hèn”, giặc giã liên miên, càng ngày Nguyễn Thiếp càng bộc lộ nỗi ưu thời mẫn thế, chán ghét chốn quan trường.
Năm 1786, Nguyễn Thiếp quyết định rũ áo, từ quan, lên núi Thiên Nhẫn lập trại và bắt đầu sống cuộc đời ẩn cư với danh hiệu La Sơn Phu Tử. Ông đã dạy học và đi đây đó khắp núi Hồng, sông Lam. Qua hơn 10 năm dạy học trong nhân dân, uy tín của Nguyễn Thiếp được lưu truyền, lan tỏa khắp cả nước. Ông nổi tiếng là người đạo hạnh thanh cao, có trình độ uyên bác. Cả nước hâm mộ tôn ông là bậc thầy. Ông cũng là con người cao sĩ, sống ẩn dật. Chúa Trịnh nhiều lần mời ông ra làm quan, nhưng ông từ chối. Chỉ đến khi vua Quang Trung kiên nhẫn cầu hiền đến ba lần, ông mới nhận lời giúp.
Sau khi đại thắng quân Thanh, năm 1791, vua Quang Trung cho mời Nguyễn Thiếp vào Phú Xuân để bàn việc quốc gia đại sự. Cảm động trước sự chân tình của vị vua “áo vải cờ đào”, ông nhận lời giúp vua, cứu nước, đã có những đóng góp to lớn cho nhà Tây Sơn với cương vị cố vấn cấp cao của triều đình, được vua Quang Trung hết mực tin tưởng.
Vua biết ông không thích tham gia chính sự nên nhờ giải quyết những việc có tính chất học thuật và đặc biệt giao hẳn việc tổ chức nền giáo dục mới. Ngay tại khoa thi Hương đầu tiên dưới triều đại Quang Trung (tổ chức ở Nghệ An vào năm 1789), Nguyễn Thiếp được cử làm Đề điệu kiêm Chánh Chủ khảo.
Ông khuyên nhà vua hòa hoãn với nhà Thanh để tập trung xây dựng đất nước trở thành một quốc gia cường thịnh. Vua Quang Trung rất quý trọng học vấn và tư cách của Nguyễn Thiếp, phong ông là La Sơn phu tử, gọi là tiên sinh không gọi tên. Vua còn tin tưởng giao cho ông việc thẩm định đức độ và tài năng của những người mới ra hợp tác với nhà Tây Sơn. Đặc biệt hơn, vua còn giao cho ông trọng trách lựa chọn địa điểm để xây dựng kinh đô mới của triều đại nhà Tây Sơn tại khu vực giữa núi Dũng Quyết, thành phố Vinh, Nghệ An. Kinh đô mới được đặt tên là Phượng Hoàng Trung Đô.
Năm 1791, La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp tấu lên vua ba việc về đạo làm vua. Một là vua phải làm thế nào để thực hiện một ông vua có đức. Hai là vua phải làm thế nào để lòng dân quy thuận. Ba là việc giáo dục phải tổ chức thế nào cho hiệu quả.
Chấn hưng giáo dục sau chiến tranh
Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên và bạn bè thăm mộ cụ Nguyễn Thiếp tại xã Nam Kim (Nam Đàn, Nghệ An), bên cạnh mộ bà chính thất. |
Sau khi đăng quang Hoàng đế vào năm 1788, Quang Trung đã ban hành Chiếu lập học, văn bản do Ngô Thì Nhậm soạn thảo. Chiếu này nhấn mạnh tầm quan trọng và tính cấp bách của việc học như sau: “Xây dựng đất nước lấy việc học làm đầu, tìm lẽ trị bình, tuyển nhân tài làm gấp. Trước kia bốn phương xảy ra nhiều việc biến động, chế độ học hành không được sửa sang, phép khoa cử dần dần sa sút, nhân tài ngày một khan hiếm. Việc đời lúc trị, lúc loạn là lẽ tuần hoàn. Song sau khi loạn càng cần phải hưng khởi chấn chỉnh, lập giáo hoá đặt khoa cử. Đó là quy mô lớn chuyển loạn thành trị vậy.”
Quan điểm giáo dục của Nguyễn Thiếp giúp nhà Tây Sơn cải cách giáo dục là: “Giáo dục tốt thì người tốt nhiều, người tốt nhiều thì triều cương chính, thiên hạ trị”. Theo Nguyễn Thiếp, việc học cần ở chỗ thiết thực. “Người không học, không biết đạo”, ông cho rằng kẻ đi học chỉ để học điều ấy. Ông cũng cho rằng sự học thời Lê - Trịnh không còn giữ được điều cơ bản trên, “người ta chỉ tranh đua học từ chương, cốt cầu công danh mà quên hẳn sự học tam cương, ngũ thường”, từ đó dẫn đến tình trạng “chúa tầm thường, tôi nịnh hót, quốc phá gia vong”.
Thời đó, vua Quang Trung muốn mời La Sơn phu tử ở tại Phú Xuân dạy học cho chính mình nhằm chấn hưng nền giáo dục của đất nước nhưng Nguyễn Thiếp đã về trường cũ, tiếp tục hàng loạt cải cách giáo dục theo sự gợi ý của vua.
Những lời tấu trong bản Luận học pháp của Nguyễn Thiếp đã được vua nghe theo. Ngày 20/8/1791, nhà vua ban chiếu lập “Sùng Chính thư viện” và mời ông làm Viện trưởng. Sau đó nhà vua tiếp tục ban bố Chiếu lập học, khuyến khích các xã mở trường học, những người đã trúng tuyển ở kỳ thi cũ phải thi lại, những người dùng tiền bạc để mua bằng cấp thì phải thu hồi.
Công việc của Viện Sùng Chính có ý nghĩa rất lớn đối với việc đặt cơ sở cho công cuộc cải cách giáo dục của nhà Tây Sơn. Công lao lớn nhất của Nguyễn Thiếp là thực hiện chủ trương của vua Quang Trung đề cao chữ Nôm, đưa chữ Nôm trở thành văn tự chính thức của nước ta. Ông đã dịch nhiều bộ sách quan trọng từ chữ Hán sang chữ Nôm, như các bộ: Tiểu học, Tứ thư (gồm 32 tập) và các bộ Kinh thi, Kinh thư, Kinh dịch... sang chữ Nôm để chuẩn bị quy chế mới về học tập và thi cử dưới thời Tây Sơn.
Tháng 9/1792, vua Quang Trung đột ngột băng hà, mọi lo toan cho sự nghiệp giáo dục của La Sơn Phu tử bị đứt quãng; mọi cố gắng của ông cũng thành dang dở. Sau khi tiêu diệt nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh vẫn có lòng kính trọng nhất định, ngỏ ý muốn mời Nguyễn Thiếp ra giúp triều đình nhưng ông đã từ chối. Nguyễn Thiếp về lại Thiên Nhẫn, tiếp tục sống cuộc đời ẩn dật như xưa, không bận lòng đến thế sự. Hai năm sau, ngày 25 tháng Chạp năm Quý Hợi (1804), ông mất tại quê nhà.
Ông Nguyễn Xuân Hải, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hà Tĩnh đánh giá: “La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp có nhiều đóng góp với vua Quang Trung ở các lĩnh vực sau: Thứ nhất, thống nhất với vua Quang Trung thời cơ đánh quân Thanh (Chiến lược “thần tốc” là do ông nêu ra. Ông cũng khẳng định trước là vua Quang Trung sẽ thắng). Thứ hai, nhận chức Viện trưởng Viện Sùng chính, chỉ đạo việc dịch các sách chữ Hán ra chữ Nôm, góp phần đưa chữ Nôm trở thành ngôn ngữ chính của nước ta thời bấy giờ. Thứ ba, đề xuất với vua Quang Trung chính sách giáo dục tiến bộ, nhấn mạnh việc chính học, việc giảng dạy đạo đức trong trường học, tiến hành cải cách giáo dục góp phần thu hút nhân tài cho đất nước. Với tầm hiểu biết sâu rộng, kiến thức uyên bác, ông được vinh danh là một trong những nhà giáo ưu tú nhất thời phong kiến.
Đương thời, Nguyễn Thiếp được người dân suy tôn làm Phu tử, uy tín lừng lẫy. Ông tuy không có địa vị khoa bảng cao, chỉ dạy học rồi lui về ở ẩn nhưng vẫn vang danh cả nước được người dân nể phục. Danh tiếng của ông do phẩm chất cao thượng, quá trình tu dưỡng và những đóng góp của ông cho sự nghiệp văn hóa, giáo dục mà thành.
Nguyễn Thiếp là tấm gương sáng chói về tri thức và đạo đức cho nhiều thế hệ ở Việt Nam. Cụ là người duy nhất được cả vua, cụ thể là Hoàng đế Quang Trung, lẫn dân gian vinh danh “Phu Tử”. Nguyễn Thiếp cũng là trường hợp duy nhất trong lịch sử nước ta được tất cả các quân vương đương thời, từ Chúa Trịnh Sâm, Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ, Hoàng đế Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản cho đến Chúa Nguyễn Ánh, trọng vọng và khẩn cầu giúp trị nước. Đặc biệt, Nguyễn Huệ đã 7 lần gửi thư, chiếu cho cụ và 4 lần hội kiến với cụ. Trong tư cách cố vấn tối cao của Hoàng đế Quang Trung cả trong thời chiến lẫn thời bình, Nguyễn Thiếp thực sự là một vị quốc sư. Chính trên cương vị này Nguyễn Thiếp đã có những đóng góp to lớn và nổi trội cho quốc gia và dân tộc Việt Nam trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là về giáo dục”.