Các dự án có nguy cơ cao phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường

(PLVN) - Một nội dung tại Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi nhận được nhiều sự quan tâm là chỉ các dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao (Nhóm I) mới phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường.

Chiều 17/11, với 443/466 Đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành, đạt tỷ lệ 91,91%, Quốc hội đã thông qua Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi). 

Trước khi thông qua toàn bộ Luật Bảo vệ môi trường, Quốc hội đã biểu quyết thông qua riêng 3 điều là Điều 28 quy định các tiêu chí về môi trường để phân loại dự án đầu tư; Điều 35 về thẩm quyền thẩm định báo cáo đánh giá tác động và Điều 40 về nội dung giấy phép môi trường với tỷ lệ tán thành tương ứng là 92,32%; 92,32% và 90,25%.

Kết quả biểu quyết thông qua Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi).
Kết quả biểu quyết thông qua Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi). 

Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi có 16 chương, 171 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2022 với nhiều nội dung mới.

Đáng chú ý, theo Luật vừa được thông qua, chỉ các dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao (Nhóm I) mới phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường.

Phương án này giảm được thủ tục hành chính cho nhà đầu tư khi thực hiện dự án thuộc đối tượng phải quyết định, chấp thuận chủ trương đầu tư nhưng không thuộc nhóm dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao. Đối với các dự án đầu tư công, dự án PPP hoặc dự án đầu tư có nguồn vốn tư nhân không có tác động xấu đến môi trường mức độ cao, nhà đầu tư sẽ không phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường. 

Phương án này không bỏ sót đối tượng là các dự án đầu tư có nguồn vốn tư nhân không thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư nhưng lại có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao. Thông qua đánh giá sơ bộ tác động môi trường, nhà đầu tư tránh được lãng phí về tài chính, thời gian trong trường hợp dự án không đáp ứng được yêu cầu về bảo vệ môi trường ở ngay giai đoạn này.

Quy định này là thống nhất với quy định của Luật Đầu tư, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP), nhưng đối tượng phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường có hẹp hơn so với quy định của Luật Đầu tư công. Vì thế, để bảo đảm tính thống nhất, tại khoản 3 Điều 169 Luật Bảo vệ môi trường đã sửa đổi, bổ sung điểm g khoản 2 Điều 30 và khoản 6 Điều 31 của Luật Đầu tư công số 39/2019/QH14.

Nội dung đánh giá sơ bộ tác động môi trường (quy định sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/2/2021) bao gồm: Đánh giá sự phù hợp của địa điểm thực hiện dự án đầu tư với chiến lược bảo vệ môi trường, quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia, nội dung bảo vệ môi trường trong quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh và các quy hoạch khác có liên quan; Nhận dạng, dự báo các tác động môi trường chính của dự án đầu tư đối với môi trường trên cơ sở quy mô, công nghệ sản xuất và địa điểm thực hiện dự án; Nhận diện các yếu tố nhạy cảm về môi trường của khu vực thực hiện dự án đầu tư theo các phương án về địa điểm (nếu có); Phân tích, đánh giá, lựa chọn phương án về quy mô, công nghệ sản xuất, công nghệ xử lý chất thải, địa điểm thực hiện dự án đầu tư và các biện pháp giảm thiểu tác động môi trường; Xác định những vấn đề môi trường chính và phạm vi tác động đến môi trường cần lưu ý trong quá trình thực hiện đánh giá tác động môi trường.

Theo khoản 3 Điều 28 Luật Bảo vệ môi trường, dự án đầu tư nhóm I là dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao bao gồm:

a) Dự án thuộc loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường với quy mô, công suất lớn; dự án thực hiện dịch vụ xử lý chất thải nguy hại; dự án có nhập khẩu phế liệu từ nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất;

b) Dự án thuộc loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường với quy mô, công suất trung bình nhưng thuộc khu vực có yếu tố nhạy cảm về môi trường; dự án không thuộc loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường với quy mô, công suất lớn nhưng thuộc khu vực có yếu tố nhạy cảm về môi trường;

c) Dự án sử dụng đất, đất có mặt nước, khu vực biển với quy mô lớn hoặc với quy mô trung bình nhưng thuộc khu vực có yếu tố nhạy cảm về môi trường;

d) Dự án khai thác khoáng sản, tài nguyên nước với quy mô, công suất lớn hoặc với quy mô, công suất trung bình nhưng thuộc khu vực có yếu tố nhạy cảm về môi trường;

đ) Dự án có yêu cầu chuyển đổi mục đích sử dụng đất quy mô trung bình trở lên nhưng thuộc khu vực có yếu tố nhạy cảm về môi trường; 

e) Dự án có yêu cầu di dân, tái định cư quy mô lớn.