Chính sách cho đồng bào dân tộc: Đừng để như quả đẹp mà không ăn được!

(PLVN) - Thảo luận về Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn tại hội trường Quốc hội (QH) sáng nay (1/11), các đại biểu Quốc hội (ĐB) cơ bản nhất trí với các nội dung trong Tờ trình của Chính phủ và báo cáo của cơ quan thẩm tra nhưng đề nghị làm rõ một số nội dung như nguồn lực thực hiện, rà soát cụ thể từng chính sách để đảm bảo hiệu quả.
ĐB Đinh Thị Bình (đoàn Phú Thọ) phát biểu tại phiên họp.
ĐB Đinh Thị Bình (đoàn Phú Thọ) phát biểu tại phiên họp.

Năm 2025, tăng gấp đôi thu nhập bình quân của người DTTS 

Theo tờ trình của Chính phủ, nước ta có 53 DTTS với hơn 14 triệu người, gần 3 triệu hộ, cư trú thành cộng đồng ở 51 tỉnh, thành phố, 548 huyện, 5.266 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 382 xã biên giới, chủ yếu ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây Duyên hải miền Trung, chiếm 3/4 diện tích cả nước. 

Đây là vùng trọng yếu về quốc phòng, an ninh, đối ngoại; nơi có nhiều tài nguyên khoáng sản, có hệ sinh thái động, thực vật phong phú đa dạng; có trên 14 triệu ha rừng, là đầu nguồn nước cung cấp cho khu vực đồng bằng.

Trong những năm qua, nhờ có sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, đời sống của đồng bào các dân tộc đã được nâng lên rõ rệt, nhưng hiện nay vẫn là nơi khó khăn nhất, chất lượng nguồn nhân lực thấp nhất, kinh tế - xã hội (KT-XH) phát triển chậm nhất, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản thấp nhất, tỷ lệ hộ nghèo cao nhất. 

Từ tình hình trên, rất cần thiết phải xây dựng “Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn” nhằm thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng và Nhà nước các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển.

Theo Đề án, mục tiêu cụ thể đến năm 2025 thu nhập bình quân của người DTTS tăng gấp 2 lần so với năm 2020; tỷ lệ hộ nghèo hàng năm giảm từ 3% đến 5%; 100% xã có đường ô tô đến trung tâm; 80% thôn, bản có nhà sinh hoạt cộng đồng; sắp xếp ổn định 70% số hộ di cư tự phát, số hộ đang sinh sống trong rừng đặc dụng, khu vực xung yếu nguy hiểm; hỗ trợ giải quyết 70% số hộ thiếu đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, còn ở nhà tạm so với cuối năm 2020…

Đến năm 2030, trong số các mục tiêu được đặt ra có thu nhập bình quân của người DTTS tăng gấp 2,5 lần so với năm 2026, không còn hộ đói, giảm 80% hộ nghèo so với năm 2020; phấn đấu 80% hộ gia đình có mức sống bằng với mức sống dân cư trong khu vực; trên 85% xã vùng đồng bào DTTS và miền núi có cơ sở hạ tầng; cơ bản hoàn thành chỉ tiêu đề ra trong mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030…

Đề án thực hiện ở địa bàn các xã vùng đồng bào DTTS và miền núi, các xã, thôn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn (không bao gồm xã thuộc vùng bãi ngang ven biển và hải đảo) giai đoạn 2021 - 2030. 

Đối tượng điều chỉnh là xác xã, thôn đặc biệt khó khăn; hộ gia đình, cá nhân người DTTS; hộ gia đình, cá nhân người dân tộc Kinh thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo sinh sống ở xã, thôn đặc biệt khó khă; doanh nghiệp, hợp tác xã, các tổ chức kinh tế, xã hội hoạt động ở địa bàn vùng đặc biệt khó khăn.

Đừng để như “quả đẹp mà không ăn được”

Cho ý kiến tại phiên họp, ĐB Đàng Thị Mỹ Hương (đoàn Ninh Thuận), ĐB Cao Thị Giang (đoàn Quảng Bình), ĐB Y Khút Niê (đoàn Đăk Lăk) cùng nhiều ĐB tán thành với sự cần thiết xây dựng Đề án như được nêu tại Tờ trình và Báo cáo thẩm tra.

Các ĐB cũng cơ bản nhất trí với các mục tiêu đến năm 2025-2030 mà Đề án đã đề cập, nhất là một số nội dung về tỷ lệ giảm hộ nghèo, tỷ lệ độ che phủ rừng, việc sắp xếp dân cư, đào tạo nguồn nhân lực, về văn hóa, về bảo hiểm y tế và các chính sách khác về xã hội.

Tuy nhiên, ĐB Bùi Ngọc Chương (đoàn Cà Mau) cho hay, hiện đang có 118 chính sách đang còn hiệu lực, trong đó có nhiều chính sách lớn và đề nghị cơ quan soạn thảo đánh giá tác động cụ thể, sâu sắc hơn về các chính sách hiện đang thực thi; xem xét có chính sách nào còn vướng mắc, chồng chéo, kém hiệu quả để có biện pháp khắc phục. 

ĐB Đinh Thị Bình (đoàn Phú Thọ) đề nghị cần rà soát, cân đối nguồn lực để bố trí đủ vốn cho đề án đúng theo quy định, không để xảy ra trường hợp chính sách đã ban hành nhưng không bố trí được nguồn lực thực hiện để chính sách dân tộc lại một lần nữa được ví như “một loại quả đẹp mà không ăn được” như có lần 1 ĐB đã phát biểu.

“Cần rà soát, phân tích các địa bàn, đối tượng để tập trung đầu tư, tránh dàn trải, không hiệu quả”, ĐB nhấn mạnh.

ĐB Lê Thị Nguyệt (đoàn Vĩnh Phúc) đánh giá Đề án đã xác định khá cụ thể tổng số kinh phí thực hiện và phân bổ theo từng giai đoạn.

Tuy nhiên, ĐB cũng cho rằng do phân cấp ngân sách nên cũng cần tính đến giải pháp thực tế, bảo đảm không bị gián đoạn kinh phí trong quá trình thực hiện đề án. 

“Ví dụ, trên cơ sở quy định tại khoản 3 Điều 17 Luật Bình đẳng giới năm 2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 39/2015/NĐ-CP về hỗ trợ phụ nữ nghèo DTTS sinh con đúng chính sách, 2 triệu đồng/lần sinh nhưng qua giám sát của Ủy ban về các vấn đề Xã hội của Quốc hội, theo Báo cáo của Bộ Y tế đến năm 2018 tại 53 tỉnh chỉ mới có 52% đối tượng được hưởng chính sách. Số còn lại do nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân mà địa phương báo cáo là không cân đối được ngân sách”, ĐB cho hay.

Đọc thêm