Tình huống nhiều bạn đọc quan tâm là, trên cơ sở hợp đồng chuyển nhượng, chuyển đổi, tặng cho QSDĐ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp giấy chứng nhận QSDĐ cho người nhận chuyển nhượng, nhận chuyển đổi, nhận tặng cho QSDĐ. Sau đó, các bên tranh chấp, Tòa án xét thấy hợp đồng nói trên bị vô hiệu hoặc chấp nhận yêu cầu hủy bỏ. Khi giải quyết, Tòa án có phải áp dụng Điều 34 của Bộ luật Tố tụng Dân sự đưa những cơ quan đã cấp Giấy chứng nhận QSDĐ đó tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không?
Điều 34 của Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định khi giải quyết các vụ việc dân sự, mà trong vụ việc đó có quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự và nội dung của quyết định đó liên quan đến vụ việc Tòa án giải quyết thì Tòa án phải hủy quyết định đó để khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Tại mục 1 Phần I của Công văn số 02/GĐ-TANDTC ngày 19/9/2016 của Tòa án nhân dân Tối cao về Giải đáp nghiệp vụ đã hướng dẫn: “Giấy chứng nhận QSDĐ là quyết định hành chính...” cá biệt. Như vậy, theo quy định tại Điều 34 của Bộ luật Tố tụng Dân sự khi giải quyết tranh chấp về QSDĐ mà trong đó có việc cơ quan nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với thửa đất đang tranh chấp không đúng, gây thiệt hại đến quyền lợi của đương sự thì Tòa án phải đưa cơ quan cấp Giấy chứng nhận QSDĐ tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và xem xét hủy giấy chứng nhận QSDĐ đó.
Tuy nhiên, hướng dẫn tại Văn bản số 64/TANDTC-PC ngày 3/4/2019 thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc về hình sự, dân sự và tố tụng hành chính, Tòa án nhân dân tối cao cho biết, tại điểm d khoản 2 của Điều 106 của Luật Đất đai quy định, cơ quan cấp Giấy chứng nhận QSDĐ không được thu hồi giấy chứng nhận QSDĐ trong trường hợp “...người được cấp Giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển QSDĐ, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật đất đai...”.
Theo Điều 195 của Luật Đất đai thì trình tự, thủ tục cấp giấy chứng nhận hoặc xác nhận nội dung biến động do chuyển QSDĐ của Chính phủ quy định. Điều 79 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định việc đăng ký biến động, cấp lại Giấy chứng nhận QSDĐ do chuyển quyền dựa trên cơ sở hồ sơ hợp đồng, Văn phòng đăng ký đất đai có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, nếu đủ điều kiện thực hiện các quyền theo quy định thì xác nhận nội dung biến động vào Giấy chứng nhận đã cấp hoặc lập hồ sơ trình cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận QSDĐ.
Như vậy, theo quy định của Luật Đất đai và Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ thì việc cấp lại Giấy chứng nhận QSDĐ hoặc xác nhận nội dung biến động trong trường hợp thực hiện hợp đồng (các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 105 của Luật Đất đai) là thủ tục hành chính trong giao dịch dân sự, không mang tính chất của quyết định hành chính cá biệt; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền sẽ thực hiện việc đăng ký biến động, cấp lại Giấy chứng nhận QSDĐ trên cơ sở kết quả giao dịch có hiệu lực.
Cho nên, khi giải quyết tranh chấp về hợp đồng chuyển QSDĐ mà hợp đồng đó bị vô hiệu, nhưng người nhận chuyển quyền đã được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ hoặc đã được xác nhận nội dung biến động thì không đưa cơ quan có thẩm quyền trong việc cấp giấy tham gia tố tụng và không cần phải tuyên hủy giấy chứng nhận cấp cho người nhận chuyển nhượng. Khi Tòa án tuyên hợp đồng chuyển QSDĐ vô hiệu thì Văn phòng đăng ký đất đai, cơ quan Tài nguyên và Môi trường căn cứ vào bản án, quyết định của Tòa án để giải quyết điều chỉnh biến động hoặc cấp lại giấy chứng nhận QSDĐ phù hợp với kết quả giải quyết của Tòa án.
Ls. Lê Thu Hiền