7/111 quy hoạch đã được quyết định hoặc phê duyệt
Trình bày Báo cáo của Đoàn giám sát của Quốc hội về việc thực hiện chính sách, pháp luật về công tác quy hoạch kể từ khi Luật Quy hoạch có hiệu lực thi hành tại phiên họp, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh nêu bật những kết quả chính đã đạt được.
Theo đó, báo cáo khẳng định, xây dựng và ban hành Luật Quy hoạch là sự nỗ lực, cố gắng lớn của Quốc hội, Chính phủ trong việc thể chế hóa Nghị quyết 13-NQ/TW ngày 16/01/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI.
Công tác lập, thẩm định, phê duyệt nhiệm vụ lập quy hoạch cơ bản đã hoàn thành. Trong tổng số 111 quy hoạch được lập theo quy định của Luật Quy hoạch, có 110/111 quy hoạch đã được phê duyệt nhiệm vụ, trong đó 41/42 quy hoạch cấp quốc gia , 6/6 quy hoạch vùng, 63/63 quy hoạch tỉnh.
Một số Bộ, ngành, địa phương đã có quyết tâm cao, khắc phục khó khăn để thực hiện nhiệm vụ nên đến nay, có 7/111 quy hoạch đã được quyết định hoặc phê duyệt, bao gồm: Quy hoạch sử dụng đất quốc gia, 4 quy hoạch ngành quốc gia trong lĩnh vực giao thông vận tải, Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long và Quy hoạch tỉnh Bắc Giang.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày báo cáo tại phiên họp. |
Cùng với đó, kinh phí lập quy hoạch đã được quan tâm bố trí. Theo Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, kinh phí lập quy hoạch trong Kế hoạch đầu tư công là 4.368 tỷ đồng, trong đó, vốn của các Bộ, ngành là 1.243,63 tỷ đồng; của 56 địa phương là 3.124,36 tỷ đồng. Số vốn đã giải ngân đến 28/2/2022 của các Bộ, ngành là 244,68 tỷ đồng (bằng 19,67%); các địa phương là 1.147,45 tỷ đồng (bằng 36,72%).
Luật Quy hoạch còn bất cập, có quy định chưa phù hợp, chưa rõ ràng
Báo cáo cũng chỉ ra một số tồn tại, hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách, pháp luật về công tác quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh.
Báo cáo chỉ rõ, Luật Quy hoạch được thông qua từ năm 2017 nhưng quá trình triển khai gặp nhiều khó khăn, vướng mắc do Luật Quy hoạch còn bất cập, có quy định chưa phù hợp, chưa rõ ràng.
Điển hình, Điều 5 và Điều 6 quy định về hệ thống quy hoạch quốc gia và mối quan hệ giữa các loại quy hoạch, theo đó quy hoạch cấp dưới phải phù hợp với quy hoạch cấp cao hơn. Đồng thời, theo quy định tại khoản 2 Điều 20, một trong các căn cứ để lập quy hoạch thuộc hệ thống quy hoạch quốc gia là quy hoạch cấp cao hơn.
Các quy định này dẫn đến sau khi Luật được thông qua gần 2 năm vẫn chưa thể triển khai được do quy hoạch tổng thể quốc gia, các quy hoạch quốc gia chưa lập, phê duyệt xong nên không có căn cứ để lập các quy hoạch cấp dưới đồng thời khi các quy hoạch thời kỳ 2011-2020 hết hiệu lực thì không còn cơ sở để thực hiện các dự án đầu tư và phát triển kinh tế - xã hội.
Bên cạnh đó, hoạt động quy hoạch được điều chỉnh ở nhiều văn bản luật (Luật Quy hoạch, Luật Quy hoạch đô thị, Luật Xây dựng, Luật Đất đai, các luật chuyên ngành khác về các quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành) và có nội dung mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập dẫn đến khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật.
Tiến độ lập quy hoạch thời kỳ 2021-2030 rất chậm so với yêu cầu của Quốc hội và thực tiễn, đến nay còn 104/111 quy hoạch chưa hoàn thành lập, phê duyệt, ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 – 2030, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2021 – 2025 .
Do tiến độ lập quy hoạch theo Luật Quy hoạch chậm nên phải tiếp tục kéo dài thời hạn và điều chỉnh Quy hoạch hiện hành thời kỳ 2011 - 2020, vì vậy đang tồn tại song song, đồng thời áp dụng hai loại quy hoạch. Việc soạn thảo, ban hành Danh mục quy hoạch được tích hợp vào các quy hoạch thuộc hệ thống quy hoạch quốc gia và Danh mục quy hoạch hết hiệu lực theo quy định tại điểm c và d khoản 1 Điều 59 còn chậm so với yêu cầu.
Việc lập đồng thời nhiều quy hoạch cùng một thời điểm trong khi số lượng, chất lượng tổ chức tư vấn hạn chế, việc đấu thầu lựa chọn tư vấn theo quy định của Luật Đấu thầu gặp nhiều khó khăn; số lượng cán bộ, chuyên gia có trình độ chuyên môn về quy hoạch để tham gia hội đồng thẩm định còn thiếu; chưa có đầy đủ hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu lập quy hoạch; hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan chưa cao... nên ảnh hưởng nhiều đến tiến độ, chất lượng lập, phê duyệt các quy hoạch.
Việc phối hợp và chia sẻ thông tin liên ngành, liên cấp giữa các Bộ, ngành và địa phương còn nhiều hạn chế. Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu quốc gia thống nhất cho công tác quy hoạch vẫn chưa được hoàn thiện…
Báo cáo chỉ rõ các nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nêu trên. Về trác nhiệm, báo cáo của Đoàn giám sát chỉ rõ, quá trình tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về quy hoạch, một số cơ quan, tổ chức chưa làm tròn trách nhiệm được giao, nhất là trong giai đoạn đầu như chậm ban hành các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn công tác lập quy hoạch hoặc ban hành văn bản không đúng thẩm quyền, hình thức theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hay văn bản có quy định không phù hợp gây khó khăn, làm chậm tiến độ lập quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch ngành quốc gia, quy hoạch vùng và quy hoạch tỉnh.
Việc tham mưu xử lý các vướng mắc liên quan đến kinh phí cho hoạt động quy hoạch, đấu thầu lựa chọn tư vấn lập quy hoạch và những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thi hành Luật Quy hoạch chưa hiệu quả…
Toàn cảnh phiên họp. |
Do đó, Đoàn giám sát đề nghị các cơ quan, tổ chức có liên quan nghiêm túc rút kinh nghiệm, đề xuất những giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn và đẩy nhanh tiến độ lập, phê duyệt các quy hoạch, bảo đảm chất lượng, hiệu quả.
Đẩy nhanh tiến độ lập, phê duyệt các quy hoạch
Trong đó, trong các giải pháp cần triển khai ngay để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc lập quy hoạch thời kỳ 2021 – 2030, Đoàn giám sát kiến nghị QH cho phép Chính phủ và các cơ quan liên quan được thực hiện các nội dung Luật Quy hoạch và các luật hiện hành chưa quy định hoặc đã quy định nhưng bất cập, vướng mắc thì được thực hiện khác với các Luật này để đẩy nhanh tiến độ lập, phê duyệt các quy hoạch cho đến khi Luật Quy hoạch được sửa đổi và có hiệu lực thi hành
Trong trung và dài hạn, Chính phủ tổng kết, đánh giá toàn diện việc thực hiện Luật Quy hoạch và các luật, văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến quy hoạch để kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật Quy hoạch, các luật có liên quan đến quy hoạch nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về công tác quy hoạch, bảo đảm đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.