Theo Luật sư Lê Hiếu - Giám đốc Công ty Luật TNHH Hiếu Hùng, khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 (BLTTDS 2015) có quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác”. Về bản chất, khởi kiện là việc công dân yêu cầu Tòa án giải quyết các tranh chấp mà người khởi kiện cho rằng bị xâm phạm và bảo đảm thực hiện bằng quyền lực nhà nước.
Với tư cách là thiết chế tư pháp, Tòa án bảo vệ quyền con người thông qua chức năng thụ lý, xét xử các loại vụ án dân sự phát sinh trong đời sống xã hội theo yêu cầu của các chủ thể có quyền. Cùng với việc thực thi quyền hạn theo quy định của pháp luật, Tòa án có trách nhiệm áp dụng pháp luật một cách hữu hiệu, khả thi nhất.
Điều 186 BLTTDS 2015 cũng quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”. Theo đó, khi cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, họ có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp nêu trên. Tòa án nhân dân (TAND) có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Vì vậy, có thể xác định, khởi kiện là hành vi biểu đạt quyền tự định đoạt của đương sự, yêu cầu Tòa án buộc người có hành vi xâm phạm chấm dứt hành vi vi phạm và thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Luật sư Hiếu cũng cho biết, việc khởi kiện của đương sự làm phát sinh tiến trình tố tụng, xác lập quan hệ pháp luật TTDS giữa Tòa án với đương sự và các chủ thể khác. Trên cơ sở yêu cầu của đương sự, tài liệu, chứng cứ đã được xem xét, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử xem xét và quyết định về từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án.
Về ủy quyền khởi kiện vụ án dân sự, theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS 2015), “Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (người đại diện) nhân danh và vì lợi ích cá nhân hoặc pháp nhân khác (người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”.
Trong đó, theo Điều 136 BLDS 2015, đại diện theo pháp luật của cá nhân gồm: Cha, mẹ đối với con chưa thành niên. Người giám hộ đối với người được giám hộ. Người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là người đại diện theo pháp luật nếu được Tòa án chỉ định. Người do Tòa án chỉ định trong trường hợp không xác định được người đại diện và người do Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Đối với pháp nhân người đại diện theo pháp luật là người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ; người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật; người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.
Điều 138 BLDS 2015 quy định:
“1. Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
2. Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.
3. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện”.
Bên cạnh đó, khoản 4 Điều 85 BLTTDS 2015 cũng quy định: “Người đại diện theo ủy quyền theo quy định của BLDS là người đại diện theo ủy quyền trong TTDS. Đối với việc ly hôn, đương sự không được ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng. Trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật Hôn nhân và Gia đình thì họ là người đại diện”.
Theo Điều 86 BLTTDS 2015, người đại diện theo pháp luật trong TTDS thực hiện quyền, nghĩa vụ TTDS của đương sự trong phạm vi mà mình đại diện. Người đại diện theo ủy quyền trong TTDS thực hiện quyền, nghĩa vụ TTDS của đương sự theo nội dung văn bản ủy quyền.
Với quy định trên, người đại diện trong TTDS là người nhân danh và vì lợi ích của đương sự để tham gia quan hệ pháp luật TTDS trong phạm vi đại diện. Phạm vi đại diện tùy thuộc vào loại đại diện. Quan hệ đại diện dựa vào ý chí của nhà lập pháp và ý chí của đương sự. Quy định về đại diện là cơ sở pháp lý để thiết lập quan hệ pháp luật, cơ chế để công dân tự bảo vệ hoặc ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của các chủ thể có quyền khởi kiện.
Ngoài ra, theo Điều 187 BLTTDS 2015, chủ thể khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước bao gồm cá nhân, tổ chức và cơ quan có thẩm quyền.
Cụ thể, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình.
Tổ chức đại diện tập thể lao động có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động hoặc khi được người lao động ủy quyền theo quy định của pháp luật.
Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có quyền đại diện cho người tiêu dùng khởi kiện bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích công cộng theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách hoặc theo quy định của pháp luật.