Dự thảo quy định mới về công tác huấn luyện, đào tạo phòng thủ dân sự

(PLVN) - Bộ Quốc phòng đang lấy ý kiến về dự thảo Thông tư quy định công tác huấn luyện, đào tạo phòng thủ dân sự đối với các lực lượng trong QĐND Việt Nam và Dân quân tự vệ.
Ảnh minh họa: Báo Quốc phòng Thủ đô
Ảnh minh họa: Báo Quốc phòng Thủ đô

Theo Bộ Quốc phòng, sau 5 năm thực hiện các quyết định về chương trình huấn luyện cứu hộ, cứu nạn cơ bản cho các đối tượng và trong các học viện, trường sĩ quan, công tác huấn luyện phòng thủ dân sự đã được các cơ quan, đơn vị quan tâm chỉ đạo. Trình độ, năng lực, phương pháp chỉ huy, tham mưu của đội ngũ cán bộ; kiến thức, kỹ năng cơ bản của hạ sĩ quan, binh sĩ trong thực hiện nhiệm vụ phòng thủ dân sự, ứng phó sự cố, thảm họa, thiên tai và tìm kiếm cứu nạn được nâng lên.

Tuy nhiên, công tác huấn luyện, đào tạo phòng thủ dân sự những năm qua cũng còn một số hạn chế, khó khăn như: Chất lượng huấn luyện chưa đạt được tính vững chắc; trình độ năng lực, khả năng xử lý tình huống sự cố, thảm họa, thiên tai của cán bộ, chiến sĩ còn hạn chế; nội dung, chương trình đào tạo phòng thủ dân sự ở các học viện, trường sĩ quan chưa được quan tâm đúng mức; việc bảo đảm cơ sở vật chất, thao trường huấn luyện phòng thủ dân sự chưa đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ.

Để triển khai thực hiện Luật Phòng thủ dân sự và khắc phục những hạn chế, khó khăn trên, cần phải xây dựng Thông tư quy định công tác huấn luyện, đào tạo phòng thủ dân sự đối với các lực lượng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Dân quân tự vệ, để nâng cao tính pháp lý, hiệu lực, hiệu quả trong chỉ đạo huấn luyện, đào tạo phòng thủ dân sự cho các đối tượng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hiện nay.

Đối tượng và mục tiêu, yêu cầu huấn luyện, đào tạo

Theo Dự thảo Thông tư, các đối tượng áp dụng dự kiến gồm: Cán bộ, học viên, nhân viên chuyên môn, hạ sĩ quan-binh sĩ các cơ quan, đơn vị, học viện, trường sĩ quan. Cán bộ, chiến sĩ dân quân tự vệ các địa phương, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp, tổ chức kinh tế.

Dự kiến thời gian huấn luyện, đào tạo các đối tượng

Điều 4 Dự thảo Thông tư quy định công tác huấn luyện, đào tạo phòng thủ dân sự đối với các lực lượng trong Quân đội nhân dân Việt Nam và Dân quân tự vệ đề xuất thời gian huấn luyện, đào tạo các đối tượng như sau:

Tổng thời gian huấn luyện phòng thủ dân sự bằng 2% tổng thời gian huấn luyện quân sự, cụ thể:

Đối với chỉ huy và cơ quan: Thời gian huấn luyện phòng thủ dân sự 0,5 ngày (3 giờ)/năm.

Huấn luyện chung chiến sĩ và phân đội: Đối với đơn vị đủ quân sẵn sàng chiến đấu huấn luyện 16 ngày/tháng: Thời gian huấn luyện quân sự 1.210 giờ, phân chia thời gian huấn luyện phòng thủ dân sự 24 giờ; chiến sĩ năm thứ nhất huấn luyện 8 giờ (giai đoạn 2), chiến sĩ năm thứ hai huấn luyện 16 giờ (giai đoạn 1: 8 giờ, giai đoạn 2: 8 giờ).

Đối với các đơn vị vừa huấn luyện vừa làm nhiệm vụ, gồm: Hải đoàn, đồn biên phòng, cảnh sát biển; tác chiến điện tử; tác chiến không gian mạng; đơn vị bảo quản; vận tải cấp chiến dịch, chiến thuật huấn luyện 8 ngày/tháng.

Đối với quân nhân chuyên nghiệp, nhân viên chuyên môn: Thời gian huấn luyện quân sự 363 giờ, phân chia thời gian huấn luyện phòng thủ dân sự 7 giờ (giai đoạn 1).

Đối với hạ sĩ quan-binh sĩ: Thời gian huấn luyện quân sự 545 giờ, phân chia thời gian huấn luyện phòng thủ dân sự 12 giờ (chiến sĩ năm thứ nhất huấn luyện 6 giờ (giai đoạn 2), chiến sĩ năm thứ hai huấn luyện 6 giờ (giai đoạn 1).

Đối với đơn vị xây dựng công trình chiến đấu, đoàn kinh tế quốc phòng; đơn vị bảo đảm thông tin liên lạc, kinh tế quốc phòng; bệnh viện, kho, trạm; phân đội vệ binh, nấu ăn các cấp; các đơn vị khối bờ cảnh sát biển, vận tải cấp chiến lược, phục vụ cơ quan cấp trung đoàn và tương đương trở lên huấn luyện 4 ngày/tháng.

Đối với quân nhân chuyên nghiệp, nhân viên chuyên môn: Thời gian huấn luyện quân sự 182 giờ, phân chia thời gian huấn luyện phòng thủ dân sự 6 giờ (giai đoạn 1).

Đối với hạ sĩ quan-binh sĩ: Thời gian huấn luyện quân sự 272 giờ, phân chia thời gian huấn luyện phòng thủ dân sự 6 giờ (huấn luyện chiến sĩ năm thứ nhất giai đoạn 2).

Đối với Dân quân tự vệ

Dân quân tự vệ năm thứ nhất: Huấn luyện 15 ngày/năm x 8 giờ/ngày = 120 giờ: Thời gian huấn luyện quân sự 86 giờ, phân chia thời gian huấn luyện phòng thủ dân sự 2 giờ/năm.

Dân quân tự vệ: Cơ động, biển, binh chủng (Phòng không, Pháo binh, Thông tin, Trinh sát, Công binh, Phòng hóa, Y tế): Huấn luyện 12 ngày/năm x 8 giờ/ngày = 96 giờ: Thời gian huấn luyện quân sự 70 giờ, phân chia thời gian huấn luyện phòng thủ dân sự 1,5 giờ/năm.

Dân quân tự vệ tại chỗ: Huấn luyện 7 ngày/năm x 8 giờ/ngày = 56 giờ: Thời gian huấn luyện quân sự 40 giờ, phân chia thời gian huấn luyện phòng thủ dân sự 1 giờ/năm.

Dân quân thường trực; Hải đội dân quân thường trực: Huấn luyện 60 ngày/năm x 8 giờ = 480 giờ: Thời gian huấn luyện quân sự 345 giờ, phân chia thời gian huấn luyện phòng thủ dân sự 7 giờ/năm.

Đọc thêm