Có thể mất đến 23 ngày
Tháng 1/2023, chị A.T (ở Tây Hồ, Hà Nội) làm thủ tục xin giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (hay còn gọi là giấy xác nhận độc thân) để đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, do thay đổi địa chỉ thường trú vào năm 20 tuổi, cán bộ địa phương yêu cầu chị A.T phải quay về nơi ở cũ để xin xác nhận trong khoảng thời gian từ 18 - 20 tuổi không đăng ký kết hôn với ai. Tại phường cũ, chị A.T phải xin giấy xác nhận cư trú để chứng minh mình từng sinh sống trên địa bàn vì đây là thời gian sổ hộ khẩu giấy vừa bị bãi bỏ. Sau khi phát sinh thêm thủ tục này, chị A.T rất “vất vả” mới xin được giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.
Chị T chỉ là một trong số nhiều trường hợp rất gian nan khi xin giấy xác nhận tình trạng hôn nhân theo Nghị định số 123/2015/NĐ-CP.
Cụ thể, theo Nghị định 123/2015, về thủ tục giấy tờ xác nhận tình trạng hôn nhân (chứng nhận độc thân), nếu người dân chỉ đăng ký thường trú tại 1 địa phương, quá trình này diễn ra rất đơn giản. Người dân chỉ cần đến UBND xã nơi đăng ký thường trú hoặc làm thủ tục online nộp các loại giấy tờ: Tờ khai cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (nếu người có yêu cầu lựa chọn nộp hồ sơ theo hình thức trực tiếp); Mẫu điện tử tương tác cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (do người yêu cầu cung cấp thông tin theo hướng dẫn trên Cổng dịch vụ công nếu người có yêu cầu lựa chọn nộp hồ sơ theo hình thức trực tuyến).
Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, công chức tư pháp - hộ tịch kiểm tra, xác minh tình trạng hôn nhân của người có yêu cầu. Nếu người yêu cầu có đủ điều kiện, việc cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân là phù hợp quy định pháp luật thì công chức tư pháp - hộ tịch trình Chủ tịch UBND ký cấp 1 bản giấy xác nhận tình trạng hôn nhân cho người có yêu cầu. Nội dung giấy xác nhận tình trạng hôn nhân phải ghi đúng tình trạng hôn nhân của người có yêu cầu và mục đích sử dụng giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.
Tuy nhiên, trường hợp người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân (độc thân) từng đăng ký thường trú tại nhiều nơi khác nhau như chị T thì khó khăn hơn vì họ có trách nhiệm chứng minh về tình trạng hôn nhân của mình.
Chỉ khi người đó không chứng minh được thì công chức tư pháp - hộ tịch báo cáo Chủ tịch UBND cấp xã có văn bản đề nghị UBND cấp xã nơi người đó đã từng đăng ký thường trú tiến hành kiểm tra, xác minh về tình trạng hôn nhân của người đó. Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị, UBND cấp xã được yêu cầu tiến hành kiểm tra, xác minh và trả lời bằng văn bản cho UBND cấp xã yêu cầu về tình trạng hôn nhân của người đó trong thời gian thường trú tại địa phương.
Nếu kết quả kiểm tra, xác minh cho thấy người yêu cầu có đủ điều kiện, việc cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân là phù hợp quy định pháp luật, hoặc sau thời hạn 20 ngày kể từ ngày gửi văn bản yêu cầu xác minh mà không nhận được văn bản trả lời thì cho phép người yêu cầu cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân có văn bản cam đoan về tình trạng hôn nhân của mình.
Thời gian cấp giấy chứng nhận độc thân là 3 ngày làm việc; trường hợp phải xác minh thì thời hạn giải quyết không quá 23 ngày.
Công dân không cần nộp giấy xác nhận độc thân khi đăng ký kết hôn
Tất cả sự nhiêu khê trên đã chấm dứt bởi quy định tại Nghị định 07/2025/NĐ-CP (có hiệu lực kể từ ngày 9/1) sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định trong lĩnh vực hộ tịch, quốc tịch, chứng thực đã có những quy định mới liên quan đến các thủ tục hành chính đăng ký hộ tịch của người dân như đăng ký kết hôn, khai sinh, khai tử...
|
Người dân từ nay không phải xin giấy xác nhận độc thân khi đăng ký kết hôn. (Ảnh minh họa: phaplyvatruyenthong.vn) |
Theo đó, Nghị định 07/2025 đã sửa đổi, bổ sung khoản 1, khoản 2 Điều 2 Nghị định 123/2015 quy định về xuất trình, nộp giấy tờ khi đăng ký hộ tịch, cấp bản sao trích lục hộ tịch như sau: Người yêu cầu đăng ký hộ tịch, cấp bản sao trích lục hộ tịch xuất trình bản chính một trong các giấy tờ là hộ chiếu, chứng minh nhân dân, thẻ căn cước công dân, thẻ căn cước, căn cước điện tử, giấy chứng nhận căn cước hoặc giấy tờ khác có dán ảnh và thông tin cá nhân do cơ quan có thẩm quyền cấp, còn giá trị sử dụng để chứng minh về nhân thân.
Người yêu cầu đăng ký khai sinh phải nộp giấy chứng sinh hoặc giấy tờ thay giấy chứng sinh theo quy định tại khoản 1 Điều 16 của Luật Hộ tịch; người yêu cầu đăng ký khai tử phải nộp giấy báo tử hoặc giấy tờ thay giấy báo tử theo quy định tại khoản 1 Điều 34 của Luật Hộ tịch và tại khoản 2 Điều 4 của Nghị định 07/2025. Trường hợp người yêu cầu đã nộp bản điện tử giấy chứng sinh, giấy báo tử hoặc cơ quan đăng ký hộ tịch đã khai thác được dữ liệu điện tử có ký số của giấy chứng sinh, giấy báo tử thì không phải nộp bản giấy.
Như vậy, khi đăng ký kết hôn công dân không cần nộp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân; khi đăng ký khai sinh không cần giấy chứng nhận kết hôn…
Quy định mới đã giảm bớt phiền hà, mang lại sự thuận tiện hơn cho người dân khi thực hiện các thủ tục như đăng ký kết hôn, đăng ký khai sinh. Người dân không phải mất thời gian, không tốn chi phí, phương tiện đi lại về nơi thường trú trước đây.
Chị N.H.Q (quê gốc ở Hà Tĩnh, nay thường trú tại Hà Nội) chia sẻ sắp tới sẽ kết hôn, ban đầu nghe một số anh chị đi trước nói về thủ tục xin xác nhận tình trạng hôn nhân với những trường hợp như chị khá rắc rối nên cũng hơi lo lắng. Bởi vậy, quy định mới này khiến chị rất vui mừng khi trong bối cảnh chuyển đổi số, Nhà nước đã số hóa giấy tờ để giảm bớt thủ tục cho người dân.
Triển khai quy định mới, với trường hợp đăng ký kết hôn, UBND các xã, phường, thị trấn không yêu cầu người dân nộp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân như theo quy định cũ mà UBND trực tiếp thực hiện tra cứu cho người dân. Chỉ với trường hợp người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân từng đăng ký thường trú tại nhiều nơi khác nhau, người yêu cầu phải cung cấp các giấy tờ chứng minh tình trạng hôn nhân tại nơi thường trú trước đây (nếu có).
Trên cơ sở các thông tin được cung cấp, cơ quan đăng ký hộ tịch tra cứu thông tin về tình trạng hôn nhân của người yêu cầu xác nhận tình trạng hôn nhân trên Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp tỉnh thông qua kết nối với Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Trường hợp không tra cứu được do chưa có thông tin trong Cơ sở dữ liệu thì cơ quan đăng ký hộ tịch phối hợp với các cơ quan có liên quan thực hiện việc xác minh.
Về chính quyền địa phương, quy định mới cũng giúp chính quyền địa phương giảm bớt lượng hồ sơ lưu trữ các giấy tờ của người dân. Quy định này còn giúp cải cách hành chính, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước và cải thiện chất lượng dịch vụ công. Đồng thời, góp phần thúc đẩy việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các lĩnh vực hành chính, tạo thêm niềm tin và sự hài lòng của người dân với chính quyền.
Để bảo đảm triển khai thực hiện thống nhất quy định của Nghị định số 07/2025, Bộ Tư pháp đã ban hành Công văn 481/BTP-HTQTCT ngày 4/2 đề nghị UBND tỉnh, TP trực thuộc Trung ương chỉ đạo Sở Tư pháp phối hợp với các sở, ngành liên quan phổ biến, quán triệt nội dung của Nghị định số 07/2025 tới cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan. Trong đó tập trung lưu ý khi tiếp nhận yêu cầu đăng ký khai sinh, cơ quan đăng ký hộ tịch không yêu cầu xuất trình giấy chứng nhận kết hôn của cha, mẹ trẻ em (nếu cha, mẹ trẻ đã đăng ký kết hôn, trừ trường hợp cha, mẹ trẻ là người nước ngoài); khi tiếp nhận yêu cầu đăng ký kết hôn, cơ quan đăng ký hộ tịch không yêu cầu nộp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân, trích lục ghi chú ly hôn (đối với công dân Việt Nam) mà thực hiện tra cứu thông tin về tình trạng hôn nhân của cha, mẹ trẻ, tra cứu thông tin về tình trạng hôn nhân của người yêu cầu đăng ký kết hôn trên Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính cấp tỉnh thông qua kết nối với Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, Cơ sở dữ liệu Quốc gia về dân cư. Trường hợp không tra cứu được tình trạng hôn nhân do chưa có thông tin trong Cơ sở dữ liệu, cơ quan đăng ký hộ tịch tiến hành xác minh theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 2 Nghị định số 07/2025.
Đồng thời, đảm bảo các điều kiện về hạ tầng, kỹ thuật, triển khai kết nối giữa Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính của địa phương với Hệ thống thông tin đăng ký, quản lý hộ tịch điện tử dùng chung của Bộ Tư pháp để tiếp nhận, giải quyết các thủ tục đăng ký khai sinh, đăng ký kết hôn, xác nhận tình trạng hôn nhân đúng quy định…
Các hồ sơ chứng thực, hộ tịch, quốc tịch tiếp nhận trước ngày Nghị định có hiệu lực mà chưa giải quyết xong thì tiếp tục được giải quyết theo quy định của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP, Nghị định số 123/2015/NĐ-CP, Nghị định số 87/2020/NĐ-CP, Nghị định số 16/2020/NĐ-CP. Trong quá trình triển khai thực hiện, nếu phát sinh vướng mắc, đề nghị phản ánh về Bộ Tư pháp (Cục Hộ tịch, Quốc tịch, Chứng thực) để được hướng dẫn giải quyết kịp thời.