Luật CSCĐ được thông qua gồm 5 chương, 33 điều, trong đó quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ, tổ chức và hoạt động của CSCĐ; điều kiện bảo đảm và chế độ, chính sách đối với CSCĐ như kinh phí, cơ sở vật chất, ưu tiên đầu tư trang bị hiện đại, nghiên cứu, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ cho các hoạt động của CSCĐ; quản lý nhà nước và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với CSCĐ. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2023.
Trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật CSCĐ trước khi Quốc hội biểu quyết thông qua Luật, Tổng Thư ký Quốc hội Bùi Văn Cường cho biết, về vị trí, chức năng của CSCĐ, có ý kiến đề nghị làm rõ hơn tính đặc thù của CSCĐ, làm rõ vai trò chủ trì, phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ đảm bảo an ninh, trật tự khu vực biên giới, trên biển; đề nghị bổ sung quy định địa bàn, phạm vi hoạt động của CSCĐ; bổ sung cụm từ “theo quy định của pháp luật” vào cuối nội dung điều luật.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) thấy rằng, dự thảo Luật quy định vị trí của CSCĐ là lực lượng vũ trang thuộc Công an nhân dân, với chức năng là lực lượng “nòng cốt thực hiện biện pháp vũ trang” bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội và được quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức, hoạt động trong dự thảo Luật.
Đây chính là đặc thù và sự khác biệt của CSCĐ so với các lực lượng khác trong Công an nhân dân. Phạm vi, địa bàn hoạt động của CSCĐ trước hết phải theo quy định của Luật Công an nhân dân và được cụ thể hóa trong dự thảo Luật, đồng thời được phân định bởi các quy định của pháp luật có liên quan (như Luật Biên phòng Việt Nam, Luật Cảnh sát biển Việt Nam).
Đối với các nhiệm vụ, quyền hạn do Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển chủ trì, CSCĐ sẽ chỉ phối hợp thực hiện khi được yêu cầu tham gia giải quyết vụ việc. Vì vậy, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho giữ như dự thảo Luật.
Về nguyên tắc hoạt động của CSCĐ, có ý kiến đề nghị bổ sung nguyên tắc “bảo đảm quyền con người, quyền công dân, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, tổ chức”, UBTVQH thấy rằng, nội dung nguyên tắc như đại biểu Quốc hội nêu đã được thể hiện tại khoản 3 Điều này, nên đề nghị Quốc hội cho giữ như dự thảo Luật.
Về nhiệm vụ của CSCĐ, có ý kiến đề nghị bổ sung quy định cụ thể về nhiệm vụ chống bạo loạn, chống khủng bố vì đây là nhiệm vụ chủ yếu của CSCĐ.
UBTVQH nhận thấy, bạo loạn, khủng bố là những tình huống có tính chất nghiêm trọng và phức tạp, nên khi vụ việc xảy ra đòi hỏi phải xử lý nhanh chóng, linh hoạt, áp dụng các biện pháp công tác có tính chất nghiệp vụ đặc thù; đồng thời, phải tuân thủ quy định của pháp luật về phòng, chống khủng bố. Do đó, UBTVQH đề nghị Quốc hội không quy định cụ thể việc thực hiện nhiệm vụ này trong dự thảo Luật.
Về quyền hạn của CSCĐ, có ý kiến đề nghị quy định cụ thể khoản 3 hoặc giao cho Chính phủ quy định chi tiết bảo đảm phù hợp với năng lực và trang thiết bị của CSCĐ và không chồng chéo với các lực lượng khác.
UBTVQH thấy rằng, hiện nay khu vực cấm bay, khu vực hạn chế bay đối với tàu bay không người lái và các phương tiện bay siêu nhẹ đang được quy định và thực hiện theo Quyết định số 18/2020/QĐ-TTg ngày 10/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ.
Nhằm tạo cơ sở pháp lý để CSCĐ thực hiện nhiệm vụ bảo vệ mục tiêu (quy định tại điểm c khoản 3 Điều 9), dự thảo Luật đã bổ sung quyền hạn tại khoản 3 Điều này.
UBTVQH đã yêu cầu Bộ Công an phối hợp với Bộ Quốc phòng tham mưu, đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan để xác định phạm vi khu vực cấm bay, khu vực hạn chế bay và phân công trách nhiệm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và khả năng của CSCĐ. Trường hợp xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm khu vực bảo vệ mục tiêu mà vượt quá khả năng, thì CSCĐ có trách nhiệm phối hợp với các lực lượng khác để xử lý hiệu quả. Vì vậy, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho giữ như dự thảo Luật.
Về quy định vào trụ sở cơ quan, tổ chức, chỗ ở của cá nhân, một số ý kiến đề nghị bổ sung quy định CSCĐ được vào trụ sở cơ quan, tổ chức, chỗ ở của cá nhân để thực hiện một số nhiệm vụ khác và ngăn chặn, trấn áp các hành vi vi phạm pháp luật khác.
UBTVQH nhận thấy, việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật bằng nhiều biện pháp khác nhau và thuộc trách nhiệm của nhiều lực lượng. Đối với các hành vi vi phạm pháp luật khác như ĐBQH nêu do các lực lượng khác chủ trì, CSCĐ có trách nhiệm phối hợp xử lý; trường hợp CSCĐ vào trụ sở cơ quan, tổ chức hoặc nơi ở của cá nhân để ngăn chặn, trấn áp hành vi vi phạm pháp luật sẽ thực hiện theo đề nghị của lực lượng đang chủ trì theo quy định pháp luật.
Do vậy, để rõ ràng hơn về phạm vi và mục đích vào trụ sở cơ quan, tổ chức, chỗ ở của cá nhân và thống nhất với nội dung của Điều này, UBTVQH đề nghị Quốc hội bổ sung cụm từ “để chống khủng bố, giải cứu con tin” ở tên Điều như dự thảo Luật.
Về sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ, phương tiện, thiết bị, kỹ thuật nghiệp vụ, có ý kiến đề nghị bổ sung quyền nổ súng vào tàu bay không người lái và phương tiện bay siêu nhẹ tại khoản 1 để phù hợp với quyền hạn của CSCĐ tại khoản 3 Điều 10, vì Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ không quy định trường hợp này.
UBTVQH thấy rằng, để thực hiện quyền “ngăn chặn, vô hiệu hóa tàu bay không người lái và các phương tiện bay siêu nhẹ” quy định tại khoản 3 Điều 10 của dự thảo Luật, CSCĐ có thể sử dụng các biện pháp, phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ hiện đại (phá sóng, chế áp điện tử…) mà không nhất thiết phải sử dụng vũ khí, vật liệu nổ. Quy định tại khoản này không bao gồm việc sử dụng vũ khí, vật liệu nổ. Vì vậy, UBTVQH đề nghị cho giữ như dự thảo Luật.
Có ý kiến đề nghị bổ sung vào khoản 2 nội dung người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước cấp trên về quyết định của mình. UBTVQH xin tiếp thu, chỉnh lý khoản 2 Điều này như dự thảo Luật.